Miền Tây mùa nước nổi
Người miền Tây Nam Bộ từ trước tới giờ ít ai gọi mùa nước nổi là mùa lũ, họ quen dùng cách gọi “tháng nước” hay “mùa nước nổi” hơn. Tháng nước có năm sớm, có năm trễ nhưng thông thường bắt đầu vào tháng Bảy và kết thúc cuối tháng Mười âm lịch. Hết vụ hè thu, đưa xong hạt lúa về nhà, nhìn nước con sông chuyển màu đỏ quạch như gạch chín, dân quê tôi lại lục đục chuẩn bị đón mùa nước nổi. Công việc quan trọng nhất đầu mùa nước nổi là chuẩn bị cho vụ đánh bắt cá, tôm. Khó có thể kể hết những nghề hạ bạc trong tháng nước.
Lúc nước chụp lên người ta đặt lọp bắt ếch, nhấp (câu) ếch, đặt trúm lươn, cắm câu cá lóc, đặt lờ cá sặc, đặt xà di cá rô, giăng lưới…
Nước bêu chút nữa thì giăng câu là chủ yếu. Giăng câu, muốn bắt cá lóc thì dùng mồi nhử là cua con; muốn bắt cá trê, cá trèn thì dùng mồi trùn đất. Dớn thì đặt suốt mùa nước, từ khi nước mới chạy đồng cho tới khi nước rút cạn. Dớn có thể bắt được nhiều loại cá, tôm, nhưng chủ yếu là cá linh.
Mùa nước nổi đem đến nhiều sản vật cho người dân vùng sông nước.
Giăng câu giỏi thì có ông Hai Hậu xóm dưới. Ông giăng cỡ hai thiên câu (khoảng hai ngàn lưỡi câu), tùy theo luồng mà móc mồi khác nhau, dính đủ loại cá. Có lần nhậu ngà ngà say, ông bảo tui thấy con cá nào ngớp một cái là có thể đem câu giăng dính liền. Mọi người không tin, thách Hai Hậu có ngon thì giăng mấy con cá ngựa gần đống chà ở vàm sông đi. Lúc ấy cả xóm tôi chẳng ai biết cá ngựa ăn mồi gì, tưởng thách vậy Hai Hậu thế nào cũng bẽ mặt. Ai dè ông xách đoạn câu chừng chục lưỡi, bơi xuồng đi hơn ba mươi phút, đem về hai con cá ngựa bự chảng. Bàn nhậu vẫn còn đó, ai cũng bái phục, nhất quyết đãi Hai Hậu nhậu tới chiều tối. Nhưng, hỏi riết mà Hai Hậu cũng không tiết lộ giăng mồi gì để bắt được cá ngựa. Dân hạ bạc nhiều khi họ giấu nghề, không dễ gì chỉ khơi khơi được. Mãi sau này, có lần bà Hai đội thao cá ngựa đi bán, không biết tại sao có một con cá chạch đực bị ói ra trong thao, thế là “bí quyết” giăng câu cá ngựa bị lộ. Đó là việc giăng câu, bắt cá thuộc loại… khó tính, chứ kiểu như các loại cá lóc, cá trê thì dân quê tôi rành sáu câu vọng cổ, ngay cả mấy đứa nhỏ bảy, tám tuổi đầu cũng giăng được.Ông Tư Pha là người đặt dớn giỏi nhất xóm tôi. Ông có hơn mười bầu dớn, đặt khắp cánh đồng, mỗi sáng đổ được cả ghe cá linh. Cá nhiều đến mức không cân ký bán nổi, toàn đong bằng thúng cho người ta ủ nước mắm. Hồi ấy người ta ít ăn cá linh, chủ yếu ăn mấy loại cá lớn. Chủ dớn gặp ai mua cá linh về ăn cũng không bán, mà cho không. Bởi vậy mới có câu thành ngữ “rẻ như cá linh sình”.
Nghề nhấp ếch cũng hấp dẫn với nhiều người. Ở quê tôi, mọi người hay tụm ba tụm bảy kéo nhau đi (gọi là đi nhấp chuyến) trên vùng đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu, miệt Tân Châu, An Phú vì trên đó ếch nhiều. Một chuyến nhấp có khi kéo dài đến nửa tháng. Mỗi người một xuồng, đi thành từng đoàn để có gì hỗ trợ nhau. Trên xuồng ai cũng trang bị đầy đủ mọi thứ, từ chiếc cà rèm để che mưa nắng đến gạo, muối, bếp lò, thuốc uống phòng khi trái gió trở trời. Đặc biệt không thể thiếu mấy cây cần nhấp. Thường mỗi người đem theo khoảng ba cây để “sơ cua”, sợ nhấp gãy giữa chừng. Cần nhấp làm bằng cây trúc, dài chừng sáu thước, đọt trúc cột cọng dây gân dài chừng ba thước, tóm lưỡi câu to. Có thể nhấp bằng nhiều thứ mồi khác nhau nhưng mồi nhái xanh là tốt nhất. Nhái xanh dễ kiếm khi nước lên, da nhái xanh dai nên rất tiện dụng, nhiều khi nhấp được cả chục con ếch mà mồi vẫn còn nguyên. Trước đây tôi có đi nhấp mấy chuyến với ông Năm Hùng, tay nhấp nổi tiếng xóm tôi. Ông cũng là người truyền dạy cho tôi nghề nhấp ếch. Ông bảo, run cần nhấp phải đều đặn thì ếch mới dạn ăn. Đối với mấy con ếch đói mồi thì dễ, bởi đớp mồi lần này không được nó sẽ đớp lần khác. Còn mấy con no mồi hay nhát mồi thì phải kiên trì, nếu chúng đớp mồi trật thì rất ít khi đớp lại. Ông còn chỉ cách nghe tiếng đớp mồi để phân biệt ếch nhỏ hay ếch bự. Con ếch nhỏ nhảy đớp mồi nghe tỏm tỏm, đớp được mồi thường lôi đi hoặc lặn xuống ngay. Còn ếch bự đớp mồi rất điềm tĩnh, hầu như ít gây ra tiếng động. Đớp xong nó không lặn ngay mà ngậm mồi thăm dò, lúc này mà giật thì khó dính. Phải đợi nó nuốt trọn con mồi rồi lặn xuống, lúc đó giật thì đừng hòng sẩy được. Ông Năm còn dạy tôi cách phân biệt ếch ăn mồi và chuột, rắn hay cá lóc ăn mồi. Mỗi loại đều có cách xử lý riêng, đó là kinh nghiệm hơn hai mươi năm lênh đênh sông nước của ông.
Đặt dớn trên cánh đồng mùa nước nổi.
Theo kinh nghiệm của dân quê tôi, đầu tháng Mười âm lịch thường có một trận mưa dông lớn đánh dấu thời điểm chuyển gió và nước bắt đầu rút (nước giựt). Khi mây đen ùn ùn kéo tới đặc kín cả bầu trời, má tôi vừa lo sợ sập nhà, vừa mừng vì sắp được thoát cảnh sống lênh đênh trên nước, bà lẩm nhẩm đọc: Ông tha bà lại chẳng tha/ Đánh nhau một trận mùng ba tháng mười. Trận mưa dông đó thường bắt đầu lúc chập tối, vần vũ cho đến tận khuya. Những lúc như vậy, ba tôi không cho anh em tôi ngủ vì sợ sập nhà. Ông bắt chúng tôi thức, ngồi sát vào nhau cho ấm, còn ông và mấy người anh lớn lội xuống nước lo chằng chống căn nhà lá.Nghề hạ bạc xôm tụ nhất vào thời điểm nước mới chụp lên và khi nước rút gần cạn đồng, chứ lúc nước bêu thì chịu. Nước bêu là thời kỳ nước đạt đỉnh cao nhất của mùa nước nổi. Khi ấy cánh đồng mênh mông nước, cây cỏ ngập hết, cả những cây thân gỗ lớn như còng hay gáo cũng bị ngập gần tới đọt. Dớn đặt lút bầu nên cá chạy ít. Lưới giăng rất khó vì nước sâu, lại hay có sóng, gió nên dễ bị rách lưới, một cơn giông kéo qua có thể khiến cả chục tay lưới giăng liền kề trở thành đống bùi nhùi. Có lẽ nước bêu là thời điểm khó khăn nhất của người dân vùng nước nổi. Mỗi gia đình sống dựa vào mấy luồng câu giăng cá lóc, thu nhập nhiều khi cũng chỉ đủ đong vài lon gạo mỗi ngày. Bởi thế, nhiều nhà bị đói. Nhà tôi cũng bị đói mấy bận lúc nước bêu vì đông miệng ăn, lúa trữ trong bồ không đủ, câu lưới lại gặp cảnh sóng gió bấp bênh. Thường thì chúng tôi sẽ ăn một bữa cơm vào buổi chiều và bữa cháo loãng vào buổi sáng. Má tôi với mấy chị hái bông điên điển, bông súng, rau muống trộn lại ăn kèm cho đầy bụng. Cá, mắm thì có nhiều nhưng cũng không thể ăn thay cơm, cháo được. Cái đói gặm nhấm xác thân. Chúng tôi sống trong căn nhà ngập nước phải kê lên bằng mấy tấm ván, chỉ bằng cỡ hai cái giường nhập lại. Cả chục người nheo nhóc trong ấy, ăn ngủ ngồi nằm chen chúc nhau, ánh nhìn lúc nào cũng ngập trong biển nước mênh mông. Nhà tôi chỉ có một chiếc xuồng, thay phiên nhau, khi thì đi giăng câu, khi đi hái bông điên điển, khi đi chợ. Anh em tôi làm thêm chiếc bè chuối để bơi xung quanh nhà, hoặc bơi qua mấy nhà lân cận khi có việc cần.
Mưa dông qua rồi, cả nhà nằm ngang dọc ngủ la liệt, sáng dậy là ngọn bấc đã hiu hiu. Những đọt sậy nhô lên khỏi mặt nước bắt đầu nhu nhú bông. Con cò xanh thơ thẩn bay đi kiếm ăn. Đó là dấu hiệu nước rút. Ba tôi cầm cây sào đứng ở mũi xuồng ngâm nga: Con cò xanh nhảy quanh hòn đá/ Chờ nước cạn ăn cá ăn tôm… Dáng ông lừng lững như Sơn Tinh trong khoảnh khắc đại thắng thần Nước, gương mặt ông phẳng lặng như cánh đồng.
Nước giựt là thời điểm nghề soi cá rầm rộ. Cánh đồng ban đêm ngập ánh đèn. Nghề soi cá chỉ có thanh niên trai tráng làm, không phải nó nặng nhọc mà vì nghề này chủ yếu làm trong đêm, đòi hỏi đôi mắt sáng, tay chân nhanh nhạy. Người soi cá dùng đèn điện thắp bằng bình ắc-quy rọi vào nước, gặp cá thì lấy chĩa đâm. Chĩa dùng đâm cá có năm hay bảy mũi tùy loại, tra vào một cán bằng trúc dài chừng ba mét. Người đi soi dùng cán chĩa chống xuồng chầm chậm trong đêm, gặp cá thì quay đầu chĩa đâm. Đâm phải đúng vị trí thì mới dính cá vì da cá trong nước rất trơn. Thường người soi sẽ nhắm vào vị trí cổ cá, khi đâm vào cá rất khó giãy giụa. Nếu đâm chệch lên đầu thì khó thủng vì xương đầu cứng. Đâm chệch phía đuôi thì cá giãy dễ sứt. Vào những lúc êm trời, mỗi người soi một đêm được cả chục ký cá như chơi. Cá soi thường bán rẻ hơn cá giăng câu, vì cá soi thương tích đầy mình. Khi nước giựt làm nổi mấy bờ ruộng lên, người ta sẽ cắm câu cá lóc bằng mồi nhái. Giựt chút nữa thì đặt đáy ở các vàm kinh bắt cá.
Cá linh non trong mùa nước nổi. Ảnh: HỒNG HIẾU
Ông Tư mất ba năm trước. Ông Hai Hậu và Năm Hùng dạo gần đây cũng già yếu lắm, không câu lưới gì được, hàng ngày ngồi nhìn hai con nước lớn, ròng, đục, trong cùng ký ức. Mà quê tôi cá tôm giờ cũng không còn mấy. Mùa khô thì dân làm ruộng dùng thuốc bảo vệ thực vật nhiều quá nên cá trên ruộng chết từ khi mới tượng hình. Mùa nước nổi cũng hiếm cá dần, vì cánh đồng nào cũng bao đê thâm canh tăng vụ. Có năm xả đê cho nước vào đồng thì chờ hoài không thấy nước, nghe đâu các quốc gia nơi thượng nguồn sông Mê Kông làm đập thủy điện ngăn dòng. Từ “tháng nước” ngày càng thưa vắng trong ngôn ngữ người dân, hiếm hoi như con cá đồng, con tôm sông lúc này. Mấy tay lưới, mấy mẻ câu ba tôi đem treo ở góc bếp, bụi bám dày. Hôm nọ nghe nói cánh đồng quê có nước, thèm canh chua cá linh nấu với bông điên điển quá nên tôi hì hục chạy từ thành phố về, kiếm hết đầu trên xóm dưới chẳng có con cá linh nào. Mấy anh chị ở nhà đành mua tạm vài con lươn người ta nuôi về nấu canh chua ăn đỡ. Ngồi ăn cơm trước hàng ba, nhìn cánh đồng nước cạn queo trước mặt, thấy chênh chao như đang đứng trên chiếc xuồng ba lá giữa dòng. Tìm mãi chẳng thấy cây sậy nào nhu nhú đọt, con cò xanh cũng biến mất tăm…Trong tất cả các nghề đánh bắt cá mùa nước nổi thì đặt đáy là đánh bắt được nhiều nhất. Đáy đặt ở vàm kênh hoặc vàm sông, bao nhiêu cá tôm từ đồng trôi ra đều vô đáy hết. Cá nhiều đến mức người ta phải dùng mấy cánh tay đòn bằng tre để nâng cá lên, rồi đổ vào ghe. Mà đổ cá xong phải quay lại đổ tiếp ngay, chậm trễ cá vô đầy bầu đáy, không cất lên nổi. Nhớ năm tôi làm mướn cho một chủ đáy, cá ra nhiều, cả chục nhân công làm không xuể, đèn đuốc thắp sáng đêm như hội chợ. Nhiều đêm chủ đáy thấy nhân công mệt quá đành phải xả bầu cho cá ra, chỉ bắt vài con tôm càng, vài con cá trê đem nướng, ngồi trên chòi canh nơi vàm rạch nhậu với chúng tôi. Ông Tư chủ đáy tóc bạc râu dài, hơn sáu mươi tuổi mà vẫn quắc thước, da đen bóng như khối gỗ mun ngâm lâu trong nước. Trước khi uống rượu, lúc nào ông cũng cầm ly đổ vài giọt xuống sông, khấn vái ông Tà bà Cậu. Đoạn, ông bưng ly rượu nốc cạn, vỗ đùi, hàm râu rung rinh dưới ngọn đèn xanh nhạt trong đêm. Rượu say ông thường kể chuyện về cá. Ông kể mấy chục năm sống bằng đủ thứ nghề hạ bạc nhưng không bao giờ tận diệt cá, tôm. Những ngày rằm âm lịch ông thường xả bầu không bắt cá để tích đức. Lưới làm đáy ông cũng chọn loại lưới thưa để bắt cá lớn chứ không chọn lưới dày.
NHẬT MINH
Tác giả tên thật là Trương Chí Hùng, giảng viên Đại học An Giang.