TÂM THỨC “TRỞ VỀ” TRONG “MẶT NẠ HƯƠNG” CỦA NGUYỄN THÁNH NGÃ.

Ngày đăng: 19/10/2025 08:43:18 Chiều/ ý kiến phản hồi (0)

Mặt nạ hương” (NXB Hội Nhà văn, 2022) là tập thơ mới nhất của nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã. Với 73 bài thơ trong tập thơ này, ngòi bút của Nguyễn Thánh Ngã chạm đến nhiều vỉa tầng cuộc sống với cảm xúc mãnh liệt, chân thành, với thái độ thẳng thắn và cái nhìn trực diện. Rung cảm trước cái Đẹp, tình yêu, tình người và cuộc sống; bất mãn trước cái xấu và mặt trái của hiện thực xã hội và không ngừng trăn trở về sứ mệnh của người cầm bút là những chiều kích tâm trạng của chủ thể trữ tình được ôm chứa trong không gian “Mặt nạ hương”. Dù tác giả có thả cái nhìn về mảng màu nào của cuộc sống, của tâm trạng thì tâm thức “trở về” cũng luôn được khơi lộ.

   1Về với bản ngã

Trong cõi thơ của mình, Nguyễn Thánh Ngã thường trực tiếp xưng Ta, Tôi để đối thoại với bạn đọc nhưng chủ yếu là để độc thoại nội tâm mình. Ta, Tôi hiện diện như một cách bộc lộ bản ngã, bộc lộ cái “Tôi” trữ tình. Vậy Ta là ai?

– Là thi sĩ.

Nguyễn Thánh Ngã nói về tư chất thi sĩ của mình rõ nét nhất ở bài thơ “Hoang”.  “Có người gọi ta/ Gã thi sĩ “H o a n g”.  Gọi vậy không biết người ta có hiểu “Hoang” là gì chứ riêng Ta thì rất hiểu mình: “Ta là “h o a n g” dại”. “Tiếng “h o a n g” …rung lên trước hoàng hôn ráng đỏ huy hoàng”. Biết “rung lên” trước hoàng hôn ráng đỏ huy hoàng tức là biết run rẩy trước cái Đẹp, biết yêu cái Đẹp đến tận cùng. Mà biết yêu cái Đẹp chẳng phải là bản năng của trái tim thi sĩ? Cái chất “hoang” đó tựa như “Hạt bụi gõ vào thinh không”, “Gõ vào những vì sao”, “pha loãng bầu trời, đám mây” và “phiêu hết mình trong gió bão nắng nôi”. Để rồi một ngày Ta nhận ra cái chất hoang của Ta mang một cái tên đầy kiêu hãnh “Đó là Hoang Nhiên Thiên nhiên”. Thiên nhiên là hiện thân của cái Đẹp, là cội nguồn của cái Đẹp, một cái Đẹp hoang nhiên. Gã thi sĩ “H o a n g” này đã ôm hết cái Đẹp đó vào hồn nên tâm hồn gã Hoang Nhiên Thiên nhiên là lẽ đương nhiên.

Gã thi sĩ này một thời trai trẻ “Ta dại khờ mang núi đi hoang”. “Lênh đênh” (*) trên dòng đời vô định, đến lúc nhìn lại mình, gã tự hỏi: “Tìm đâu con đường dài/ hết lo ngại/ để lênh đênh quay về/ quay về”. Quay về đâu? Câu trả lời là đây: “Về núi” (*).

Về núi là về với tiếng chim mỗi sáng/ đánh thức ta qua kẽ ván gió lùa/ Về với sợi khói vắt qua mái chòi thung lũng/ Về với nụ cười tỏn tẻn của em thơ”.

Thế đấy, “tiếng chim mỗi sáng”, “sợi khói vắt qua mái chòi”, “nụ cười em thơ”, “giọt sương đánh đu trên lưới nhện”….mang vẻ đẹp tinh tuyền của buổi mai nguyên khởi  mà chỉ có Núi mới cho Ta để Ta “mỗi ngày tâm trí được hoang vu…”. Và “Về núi/ Là về với mộng đời hoang dã”. “Hoang vu”, “hoang dã” vốn là bản sắc của “núi”. Nói đến “núi” là nói đến “hoang”. Vậy, phải chăng “về núi” là về với cái Đẹp nguyên sơ? Hình ảnh vũ trụ kỳ vĩ “núi” hiện diện trong những câu thơ trên đã mở rộng biên độ liên tưởng sâu xa cho bạn đọc về vẻ đẹp tự nhiên nguyên khởi, về tầm cao và về sự bền vững đời đời. “Núi” trong thơ Nguyễn Thánh Ngã trở thành hình tượng biểu trưng cho cái Đẹp tự nhiên, vĩnh hằng mà nhà thơ đã gói gọn trong từ “hoang”. Về núi cho “tâm trí được hoang vu”, “mộng đời hoang dã” là về với cái Đẹp tự nhiên không tô vẽ, màu mè. Thế cũng tức là Ta về với bản nguyên của Ta là H o a n g- thi- sĩ.

“Chữ” là phương tiện cho người cầm bút biểu đạt tư tưởng. Là thi sĩ, Ta nâng niu, khám phá từng con chữ để dệt nên những vần thơ:

– Những quặng nghĩa nằm trong lòng chữ/ Hấp dẫn tư duy/ Rụng xuống mặt đời

       -Một ngày kia/ Khám phá lòng chữ/ Quặng nghĩa sẽ dâng cho đời tầng vỉa hương thơm.  

      -Và tiếng nói sẽ bật lên từ vị giác/ Sự nếm trải ngôn từ làm nên giấc mơ (Từ trường chữ)

Giấc mơ” được dệt nên từ con chữ là giấc mơ “dâng cho đời vỉa hương thơm”. Thế nhưng cuộc đời khắc nghiệt, khiến “Tôi không thể làm gì/ tôi không thể làm gì/ khi đứng sau linh hồn giấy mỏng” (Mật ngữ của đam mê). Một sự bất lực đến đớn đau:

         – Bài thơ nhỏ bé quá

           không thể làm gì!

           Chỉ có tứ thơ bật khóc mếu máo

            ý thơ đi lạc giữa mênh mông.   (Khi bài thơ cất tiếng khóc)

          – Bạn thấy rồi đấy,/ những con chữ khóc nức nở/ của thơ tôi (Bày tỏ)

 “Khi bài thơ cất tiếng khóc” thì cũng là lúc chữ chỉ còn là “bóng chữ” thôi:

Bóng chữ giấu dưới tàn tro/ chín mềm thi sĩ      (Bồ hóng bếp rụng câu thơ)

Biết “khóc”, biết đớn đau, biết trăn trở bởi thơ Ta không chấp nhận cái “thời đại rác/ …rác lên men/ rác tái chế/ rác tôn lên/ những ông chủ/ rác hạ xuống/ địa vị bốc mùi/ nụ cười ẩm mốc/ lũ trẻ vẫn lượm rác/ để chữa lành bệnh tật/ nuôi giấc mồ côi” (Rác). Không chấp nhận cái xấu, cái ác mà thơ Ta thì đành bất lực. Sống trong cái “xã hội đòi múa máy/ kẻ xu thời tái chế lên gân”, Ta chỉ muốn giữ cho thơ Ta không bị cuốn vào “những rạp xiếc ngôn từ đu dây/ được đựng đậy bởi rượu ngon và gái đẹp” (Mật ngữ của đam mê), muốn giữ cho ngòi bút của Ta không bị “bẻ cong” và giữ tâm hồn không bị nhiễm rác, vấy bùn. Mà muốn thế thì chỉ có “về núi” thôi, về với chính Ta, một “Gã thi sĩ H o a n g”.

-Ta còn là người hành thiền, sống theo Phật pháp. Tinh thần thiền định và tôn giáo Phật giáo thấm đẫm trên trang thơ Nguyễn Thánh Ngã:

                     – Tôi leo lên ngọn đồi/ Như leo lên ý tưởng của tôi/ Để nhìn thấy hàng cây tư duy/ Những tảng đá tư duy/ Ngôn ngữ của khói sương trầm mặc/ Những bãi cỏ xếp bằng/ Những gốc cây thiền định/ Đóa hoa nào nghe pháp nở hương thơm…/ Mỗi bước chánh niệm/ Mỗi bước hoa sen/ Được lay động bởi hồi chuông tỉnh thức.    (Trên ngọn đồi ý tưởng)

Ngày xuân tôi niệm với chính tôi/ Niệm từ bi xanh ân cần trên lá/ Tôi và cây buông xả/ Hạt bụi dại khờ/ Rớt xuống thế gian/ Lời kinh bàng hoàng/ Phật pháp chứa chan   (Lời kinh trên lá)

Phật pháp chứa chan” trong lòng và soi chiếu trong từng bước đi của Ta. Khi “Mang ngọn núi ta đi” (*) “Giữa những bất lực” trước sóng gió cuộc đời mà Ta vẫn vững vàng như:

                         Một thân cây cháy rực/  trổ một đóa từ bi   (Mang ngọn núi ta đi)

Các hình ảnh “Đóa từ bi”, “từ bi xanh”, “cây buông xả”, “gốc cây thiền định”, “mỗi bước hoa sen”…làm hiển hiện trước mắt bạn đọc cây Thiền bám rễ trong tâm hồn người luôn vươn cành, xanh lá, nở hoa, tỏa hương và phát sáng. Một thứ ánh sáng huyền nhiệm tỏa rạng soi chiếu làm cho con người tỉnh thức, giác ngộ để hướng về Chân-Thiện-Mỹ. Đó là nơi tâm hồn Ta về trú ngụ để tìm thấy sức mạnh vượt qua khổ đau, thất bại… khi dấn thân vào cõi Ta bà.

Thế đấy, Ta là một kẻ phàm trần vướng nhiều tục lụy. Khoác trên vai chiếc áo thi nhân, Ta dùng con chữ để dệt nên giấc mơ dâng hiến cho đời. Ta, một kẻ hành Thiền, sống luôn nương theo ánh sáng Phật pháp. Chiếc áo thi nhân có khi bị “nhàu” nhưng tinh thần Thiền thì luôn kiên định. Nếu “Một ngày nào đó/ ta bắt gặp ta/ trong đời” thì Ta trong đời vẫn là Ta, là Thánh Ngã, là “Gã thi sĩ h o a n g”.

2- Về với ngày xưa

“Nhớ xưa” cũng nằm trong nội hàm “trở về”. Nhớ về quê hương, gia đình, cha mẹ là nỗi nhớ thường trực trong Ta, một kẻ phiêu bạt tha hương.

       Mùa hạ về bên sông/ Nằm nghe dòng sông chảy/ Ta làm một hạt bùn/ Dính bàn tay của mẹ.”, “Ta làm một cộng rơm/ Vai áo cha lặng lẽ” (Mùa hạ bên sông).

Muốn hóa thân thành “một hạt bùn”, “một cọng rơm” để thấu cảm những hy sinh lớn lao của mẹ cha. Chỉ có “một” trong vô vàn gian nan vất vả mà mẹ cha hứng chịu nhưng đó là tiếng vọng của “đạo lý” đầy sức nặng. Bởi về với gia đình, quê hương là về với cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người.

Tình xưa, mối tình thời trai trẻ đầy lãng mạn nhưng đã lỡ làng cũng luôn thao thức trong lòng chủ thể trữ tình. Giờ về lại bến sông xưa chỉ thấy “hoa tím rụng đầy” bởi “người xưa đã giắt hoa vào tím/ bước lên đò/ che tiếng sấm/ giêng non…”. Để cho “tôi đứng đợi/ một con đò tưởng tượng”. Dùng “tím” để phô diễn nỗi buồn mất người yêu vốn là cách quen thuộc nhưng Nguyễn Thánh Ngã đã biết gây sức hút bằng cách thả vào không gian toàn “tím” kia hình ảnh “một con đò tưởng tượng”. Phải chăng lúc này người thơ đang đứng giữa đôi bờ hư – thực. Cái thực của quá khứ “em bước lên đò” theo chồng về xứ lạ giờ trở thành hư ảo (tưởng tượng) trong Tôi. Thử hỏi còn “đợi” gì nữa khi tím “Chỉ là tím thôi” (*), khi tình yêu xưa chỉ còn là nỗi nhớ. Nếu bảo tình chỉ đẹp khi còn dang dở thì đây chẳng là một ký ức đẹp mà tâm tưởng người thơ rất muốn “trở về”.

Hoài niệm về người anh hùng thuở trước, Nguyễn Thánh Ngã đã về “Côn Sơn” (*) để gặp Ức Trai. Nhớ về một nhà chính trị lỗi lạc, một văn hào, một nhà thơ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc mình, lòng thi nhân dâng lên niềm cảm khái tự hào: “Dạ thưa/ đại cáo còn không/ mà bình ngô/ vẫn non sông đang chờ”. Xuyên qua không/thời gian, áng Thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo luôn vang vọng niềm tự hào trong lòng hậu thế là lẽ đương nhiên. Thế nhưng nhớ Ức Trai, Nguyễn Thánh Ngã lại nghe “tiếng se sắt/ lòng”. Là vì “nhớ ai như vẫn/ và còn/ lệ chi” tức là nhớ về bi kịch Ức Trai. Đó là nỗi đau xuyên thời gian “ngày xưa/ mà vẫn bây giờ/ người ngồi/ như một câu thơ/ mỏi mòn”.

Trong cái điệu buồn hoài niệm, Nguyễn Thánh Ngã về thăm cố đô Hà nội qua “Xem tranh phố phái” (*). Hà Nội 36 phố phường qua từng nét vẽ vẫn “đậm nét giữ lại hồn phách mái xưa” vẫn “Đổ bóng vào hồn tôi ngõ nhỏ mỗi lần qua”, tức là “Hà Nội còn đây”. Thế nhưng Hà Nội hôm nay đã đổi thay, liệu hồn phách xưa có còn níu giữ?

Tôi đi như gió xưa rẽ mái ngói cong cong/ Thổi qua cột điện, chiếc xe bò trong phố/ Thăm sạp báo cũ sớm mai/ Rồi vẫy tay bác xích lô đi về Phố cổ/ Nào Phố Chợ Gạo Mã Mây/ Đến Hoàn Kiếm trầm buồn/ Ba cô gái đứng nhìn ba ô cửa/ Gò Rùa in bóng nước miên man”.

Có phải lúc này người xem tranh đang phân thân. Người thì đứng trước tranh mà hồn thì hóa thành “gió xưa” về thăm phố cổ để rồi ngậm ngùi nhận ra rằng Hà Nội giờ “trầm buồn”, “quạnh hiu”, “Loe hoe áo đỏ mơ hồ”. Có vẻ “Như níu giữ một chút gì Hà Nội/ Vừa thực vừa hư vừa ẩn hiện trong tranh”. Để rồi tiếng thở dài buông ra “Làm sao vắt được chút tình Hà Nội”. Mặc dù “Tôi chỉ là du khách ngắm bâng khuâng” nhưng không khỏi u hoài trước văn hóa cổ truyền hao khuyết khi “Hà Nội đổi thay”.

Con người sống trong hôm nay phải biết soi mình trong quá khứ, dù quá khứ tự hào hay buồn đau cũng đều cho ta sức mạnh để bước tiếp…Có lẽ đây là lý do khiến người thơ Nguyễn Thánh Ngã chân bước đi trong lòng thời đại mà hồn thì luôn “nhớ xưa”.

Nỗi đời, nỗi người và nỗi mình như đồng hiện trong không gian “Mặt nạ hương” làm cho “nỗi buồn” cũng vọng ngân xuyên thi tập. Có ai hoài niệm mà không buồn? Có ai tìm nẻo về mà không trăn trở, băn khoăn? Nguyễn Thánh Ngã không ngoại lệ. Nhưng buồn mà không u uất, yếu mềm; trăn trở băn khoăn mà dứt khoát mạnh mẽ, đó là vọng âm nổi trội trong bản hòa ca “Mặt nạ hương”.

Mặt nạ hương” là tập thơ thứ tám của Nguyễn Thánh Ngã. Tính từ tập thơ đầu tay “Nhớ xanh” (NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2001) đến tập thơ này có thể nói con đường thơ của Nguyễn Thánh Ngã đã trải dài hai mươi mấy năm. Ngần ấy năm trăn trở với con chữ, ngòi bút của “Gã thi sĩ hoang” hẳn là “cứng” hơn, tư duy thơ “chín” hơn trước. Ở tập thơ này, “dấu vân tay” của Gã cũng in đậm nét hơn trên từng con chữ. Vẫn trên nền tảng Hiện thực, Lãng mạn nhưng Nguyễn Thánh Ngã đã đặt một chân lên bờ Siêu thực nên thơ ông vừa gần gũi mà cũng vừa hư ảo, vừa quen cũng vừa lạ. Cái mới lạ đó thể hiện rõ ở ngôn ngữ thơ đa nghĩa đời thường mà gai góc, sắc cạnh lại giàu sắc thái biểu cảm; ở kiến tạo hình ảnh thơ nhiều sức gợi và rất ám ảnh; ở thể thơ vừa truyền thống vừa cách tân… “Mặt nạ hương” ra mắt bạn đọc lúc Nguyễn Thánh Ngã tuổi đời sắp chạm ngưỡng “Thất thập cổ lai hy”, độ tuổi có bề dày trải nghiệm, chiêm nghiệm cuộc sống. Chính điều này đã làm giàu thêm chất suy tưởng, đậm thêm chất triết lý và màu Thiền cho thơ ông. Tất cả đó đã tạo nên “hương” cho “Mặt nạ hương”.

P/s: (*) là tên bài thơ trong tập thơ “Mặt nạ hương”.

Bình Định (cũ), 14/10/2025

      TUỆ MỸ

 

TUỆ MỸ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác