Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ

Ngày đăng: 1/11/2024 06:34:46 Sáng/ ý kiến phản hồi (0)
Nhớ năm 1964 của Thế kỷ trước, khi dự thi môn Văn của bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, tôi đã phải trả lời câu hỏi giáo khoa : Giải thích nghĩa của thành ngữ “Dữ Thế Phù Trầm” và so sánh sự tương quan với thành ngữ “Ăn Xổi Ở Thì” của ta. Mặc dù lúc đó chỉ mới có 16 tuổi, nhưng nhờ biết được chút đỉnh chữ Nho nên tôi đã rất đắc ý và cảm thấy rất khoái chí khi trả lời câu hỏi nêu trên, và cứ đinh ninh cho rằng nhờ trả lời được câu hỏi đó mà mới đậu được bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp trong năm đó…
      DỮ 與 là Cùng, với; THẾ 世 là Cuộc đời; PHÙ 浮 là nổi; TRẦM 沉 là Chìm. Nên DỮ THẾ PHÙ TRẦM 與世浮沉 có nghĩa là “Chìm nổi với cuộc đời”. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ《Hữu Ban Điện Trực Phó Quân mộ chí minh 右班殿直傅君墓志铭》của Tư Mã Quang đời Tống 宋·司马光 Trong đó có câu nói như sau :… Nhiên bất năng dữ thế phù trầm. Bình thị qúy yếu, nhược vô nhân, cố sở chí trở ngữ … 然不能與世浮沉。平视贵要,若无人,故所至齟齬。” Có nghĩa : “… Thế nên không thể nổi chìm theo thế sự, xem thường những người quyền qúy như những kẻ không ra gì, để đến đổi phải đôi co cắn đắn”. Nên…
     DỮ THẾ PHÙ TRẦM 與世浮沉 là Nổi chìm theo thế sự, chìm nổi với cuộc đời, mặc cho thói đời đưa đẫy; và trong một chừng mực nào đó, nó có nghĩa như là thành ngữ “ĂN XỔI Ở THÌ” của ta. Theo Từ điển Việt Nam trên mạng “ĂN XỔI” là Ăn qua loa cho xong; “Ở THÌ” là Ở cho qua thời buổi. Nên…
     ĂN XỔI Ở THÌ là “Ăn ở một cách qua loa hời hợt lây lất cho qua cuộc sống trước mắt”; cũng có nghĩa là đụng đâu cũng ăn, gặp đâu cũng ở mà không cần biết đến ngày mai hay hậu qủa sẽ ra sao. Như trong đêm Kim Kiều gặp gỡ ước hẹn đá vàng với nhau, khi “Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi“, thì Thúy Kiều đã “stop” chàng Kim lại :
                      Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
                    Thì con người ấy ai cầu mà chi.
                       Phải điều Ăn XỔI Ở THÌ,
                  Tiết trăm năm nở bỏ đi một ngày !?
      Nhưng ĂN XỔI Ở THÌ cũng như DỮ THẾ PHÙ TRẦM không phải lúc nào cũng có nghĩa tiêu cực xấu xa; Trong một tình huống hay một hoàn cảnh xã hội nào đó NÓ cũng có nghĩa tốt của nó, như câu nói :”… Trong thời buổi nhiễu nhương loạn lạc nầy đành phải ĂN XỔI Ở THÌ (hay DỮ THẾ PHÙ TRẦM) cho qua ngày đoạn tháng mà thôi !…
                    Inline image
      Tệ hơn ĂN XỔI Ở THÌ một bâc là GIÁ ÁO TÚI CƠM. Rất nhiều bạn trẻ hỏi tôi :”GIÁ ÁO TÚI CƠM là gì vậy chú ? Cháu nghe nói hoài mà không biết nghĩa chính xác của nó là gì ?!”.
      GIÁ ÁO TÚI CƠM chữ nho là Y GIÁ PHẠN NANG 衣架飯囊. Y GIÁ là cái giàn cái giá để móc (máng) áo quần; PHẠN NANG là cái túi để đựng cơm. Cái GIÁ để máng ÁO và cái TÚI để đựng cơm chỉ có công dụng để làm được hai việc đó mà thôi. Thành ngữ nầy dùng để chỉ những người mà thân mình chỉ như cái giá để máng áo lên và cái bụng thì như cái túi để đựng cơm; tức là những con người chỉ biết MẶC QUẦN ÁO và ĂN CƠM, ngoài ra không biết làm gì nữa cả. Tóm lại, Thành ngữ nầy dùng để chỉ những người VÔ DỤNG, không nên thân, không làm nên tích sự gì cả, chỉ biết mặc quần áo và ăn cơm mà thôi !
      Y GIÁ PHẠN NANG có xuất xứ từ Tam Quốc Diễn Nghĩa hồi thứ 23 三国演义 第二三回:Có đoạn… 帝覽表,以付曹操。操遂使人召衡至。禮畢,操不命坐。禰衡仰天歎曰:「天地雖闊,何無一人也!」操曰:「吾手下有數十人,皆當世英雄,何謂無人?」衡曰:「願聞。」操曰:「荀彧、荀攸、郭嘉、程昱機深智遠,雖蕭何、陳平不及也。張遼、許褚、李典、樂進勇不可當,雖岑彭、馬武不及也。呂虔,滿寵為從事;于禁、徐晃為先鋒。夏侯惇,天下奇才;曹子孝,世間福將。安得無人?」衡笑曰:「公言差矣。此等人物,吾盡識之:荀彧可使弔喪問疾,荀攸可使看墳守墓,程昱可使關門閉戶,郭嘉可使白詞念賦,張遼可使擊鼓鳴金,許褚可使牧牛放馬,樂進可使取狀讀詔,李典可使傳書送檄,呂虔可使磨刀鑄劍,滿寵可使飲酒食糟,于禁可使負版築牆,徐晃可使屠豬殺狗。夏侯惇稱為『完體將軍』,曹子孝呼為『要錢太守』。其餘皆是衣架、飯囊、酒桶、肉袋耳!」… Vua xem tờ biểu xong, đưa cho Tào Tháo 曹操, Tào Tháo bèn sai người triệu Nễ Hành 禰衡 đến. Làm lễ xong, Tào Tháo không mời ngồi. Nễ Hành ngửa mặt lên trời than rằng: “Trời đất tuy rộng, nhưng sao không có lấy một người.” Tào Tháo nói: “Thủ hạ của ta có đến mấy chục người, đều là anh hùng trong đời, sao lại bảo là không có người?” Nễ Hành nói: “Xin được nghe là những ai?” Tào Tháo đáp rằng: “Tuân Úc 荀彧, Tuân Du 荀攸, Quách Gia 郭嘉, Trình Dục 程昱, mưu trí sâu xa … dù là Tiêu Hà 蕭何, Trần Bình 陳平 theo cũng không kịp; Trương Liêu 張遼, Hứa Chử 許褚, Lý Điển 李典, Nhạc Tiến 樂進 dũng mãnh không ai bằng … dù là Sầm Bành 岑彭, Mã Vũ 馬武 theo cũng không kịp; Lữ Kiền 呂虔, Mãn Sủng 滿寵 là tùng sự; Vu Cấm 于禁, Từ Hoảng 徐晃 làm tiên phong. Hạ Hầu Đôn 夏侯惇 là kỳ tài trong thiên hạ; Tào Tử Hiếu 曹子孝 là phước tướng ở trên đời, sao lại bảo là không có người?” Nễ Hành cười đáp rằng: “Ông nói sai rồi. Những người đó tôi đều biết cả : Tuân Úc có thể sai đi điếu tang thăm bệnh, Tuân Du có thể sai đi canh mồ giữ mả, Trình Dục có thể sai đóng cửa giữ nhà, Quách Gia có thể sai ngâm thơ đọc phú, Trương Liêu có thể sai đánh trống khua chiêng, Hứa Chử có thể sai chăn trâu thả ngựa, Nhạc Tiến có thể sai tiếp thư đọc chiếu, Lý Điển có thể sai đưa tờ truyền hịch, Lữ Kiền có thể sai mài dao đúc kiếm, Mãn Sủng có thể sai uống rượu húp hèm, Vu Cấm có thể sai vác gỗ xây tường, Từ Hoảng có thể sai mổ heo giết chó. Hạ Hầu Đôn là Tướng quân chỉ biết bảo vệ thân mình, còn Tào Tử Hiếu là Thái thú chỉ biết vòi tiền người khác. Còn lại đều là phường giá áo, túi cơm, thùng rượu, túi thịt cả.” (Kỳ dư giai thị Y GIÁ, PHẠN NANG, TỬU DŨNG, NHỤC ĐẠI nhĩ 其餘皆是衣架, 飯囊, 酒桶, 肉袋耳). Ngoài “GIÁ ÁO TÚI CƠM” ra, Nễ Hành còn chê những người vô dụng như là : “Thùng đựng rượu và Túi đựng thịt” chỉ biết uống rượu ăn thịt mà thôi chớ không làm nên trò trống gì cả !
                     Inline image
         Về “Thùng đựng Rượu” để chỉ những người chỉ biết có uống rượu mà không biết làm việc gì khác cả. Ta gọi những tay bơm nhậu đó là “Be Rượu”(là cái be sành để đựng rượu) hay còn gọi là “Hủ chìm”, ý là suốt ngày cứ chìm trong hủ rượu mà không lo chí thú làm ăn gì hết !
     Riêng từ “Túi đựng thịt” ta còn nói là “Cái bị đựng thịt” và nói gọn lại là “BỊ THỊT”. Nên khi mắng ai là “Thứ cái đồ BỊ THỊT !”, có nghĩa là mắng người đó là “Đồ vô dụng !”. Nhưng trong “tập quán ngôn ngữ” của ta, khi mắng là “Đồ bị thịt” còn có nghĩa ám chỉ đó là “Những người to xác mà đần độn”, lớn đầu mà không nên thân. Tóm lại :
     GIÁ ÁO, TÚI CƠM, THÙNG RƯỢU, BỊ THỊT đều là những từ dùng để diễn tả những người vô tích sự, vô dụng chỉ biết ăn ngon mặc đẹp nhậu nhẹt bê tha mà không làm nên trò trống gì được cả ! Thay vì con người MẶC ÁO ĂN CƠM thì phải làm việc, đằng nầy cái thân mình như cái GIÁ để MÁNG cái áo lên và cái bụng thì như cái TÚI chỉ để CHỨA cơm, chứa rượu, chứa thịt mà thôi. Vô tích sự đến thế là cùng ! Như cụ Nguyễn Du đã so sánh và ca ngợi anh hùng Từ Hải trong Truyện Kiều với lũ bất tài nói trên là :
                      Phong trần mài một lưỡi gươm,
                   Những phường GIÁ ÁO TÚI CƠM sá gì !
                     Nghênh ngang một cỏi biên thùy,
                   Thiếu gì cô qủa, thiếu gì đế vương !
                   Inline image
     Cũng cùng một thành ngữ, nhưng trong tiếng Hoa lại có nghĩa khác hơn trong tiếng Việt ta. Ví dụ như câu :
     “NGỰA QUEN ĐƯỜNG CŨ” có gốc từ thành ngữ : LÃO MÃ THỨC ĐỒ 老馬識途 là Những con ngựa già nhận biết được đường cũ đã đi qua. Thành ngữ này có xuất xứ từ Hàn Phi Tử. Thuyết Lâm Thượng 韓非子.說林上 như sau :
     Tề Hoàn Công là Bá chủ lúc bấy giờ, theo yêu cầu của nước Yên, xuất quân chinh phạt Cô Trúc Quốc của Sơn Nhung. Lúc đi là mùa xuân, nhưng khi về lại là mùa đông. Cây cỏ lá hoa cảnh vật đều thay đổi cả; Nên bị lạc trong sa mạc núi non mù mịt không biết đường ra. Đang cơn bối rối, Thừa tướng Quản Trọng bèn nghe theo những người lính già, thả những con ngựa già ra rồi cho quân đi theo. Qủa nhiên, ra khỏi được nơi bị lạc với sa mạc mênh mông. Nên thành ngữ “LÃO MÃ THỨC ĐỒ” dùng để chỉ sự đắc dụng của những người có kinh nghiệm từng trãi, có vốn sống phong phú.    
     Còn câu “NGỰA QUEN ĐƯỜNG CŨ” của ta thì không có ăn nhập gì đến kinh nghiệm và từng trãi cả, mà thường được dùng để ám chỉ “Những thói quen khó bỏ của ai đó hoặc của việc gì đó, thường là xấu hơn là tốt”, như Cờ bạc, Rượu chè, Trai gái, hút xách ….
                  Inline image
      “ĐAO TO BÚA LỚN” có gốc từ câu : Đai Đao Khoát Phủ 大刀闊斧. Câu nói nầy có xuất xứ từ truyện Thủy Hử của Thi Nại Am đời Minh《水滸傳》第三四回 Hồi thứ 34 có câu :”… Tần Minh từ biệt quan Tri Phủ, phi thân lên ngựa, triển khai đội hình với ĐAO TO BÚA LỚN rầm rộ tiến về Thanh Phong Trại…” Nên ĐAO TO BÚA LỚN có nghĩa : Dùng thực lực mạnh mẽ để tấn công cướp trại hay đánh trận. Nhưng “ĐAO TO BÚA LỚN” của ta hiện nay được sử dụng để chỉ sự khoát lác hoặc nói năng mạnh bạo qúa  đáng qúa mức của ai đó, chưa biết có làm được việc gì không, nhưng lại sử dụng toàn những từ ngữ “ĐAO TO BÚA LỚN” !
                    Inline image
       Điều lý thú nhất là lắm khi hai từ cùng một nghĩa gốc, nhưng lại diễn hai ý hoàn toàn khác biệt nhau, như : Hai cặp từ kép CAN QUA và MÂU THUẪN dưới đây :
    *CAN QUA 干戈 :
       – CAN  干 : là Có Quan Hệ, như Can Dự 干預(與), Can Hệ 干係, Can Thiệp 干涉, Can Liên 干聯, ta nói là Liên Can… CAN vừa là Bộ vừa là Chữ theo lối Tượng Hình như sau :
                       Giáp Cốt Văn  Kim Văn Đại Triện    Tiểu Triện      Lệ Thư
                       Inline image
Ta thấy …
     CAN là hình vẽ một loại vũ khí dùng để đi săn thú rừng ngày xưa, đầu có hai mũi chỉa nhọn, dưới có dây thòng lọng, là một loại vũ khí dùng để tấn công. Nhưng sau nầy thường dùng theo nghĩa Phòng Ngự, nên CAN là cái Thuẫn, cái Mộc để chống đở phòng ngự. Còn …
    – QUA 戈 : là Một loại vũ khí ngày xưa, làm bằng đồng sắt, có cán dài, dùng để đánh trận, theo chữ viết Tượng Hình như sau :
                      Giáp Cốt Văn   Kim Văn Đại Triện     Tiểu Triện        Lệ Thư
                       Inline image
Ta thấy :
        Đây là một loại vũ khí dùng cho kỵ binh, đầu có móc nhọn, đuôi  có cán dài để tiện việc đánh nhau trên lưng ngựa.
        Nên …
     CAN QUA 干戈 : là Một Đâm Một Đở, một chém một ngăn, là Đánh nhau, là Chiến Tranh. Ta thường hay nghe nói : Dấy động Can Qua là Gây sự đánh nhau, là Phát động Chiến Tranh. Hai câu đầu trong bài sấm Trạng Trình có nhắc đến  từ nầy :
                    Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,    龍尾蛇頭起戰爭,
                    CAN QUA xứ xứ khổ đao binh.       干戈處處苦刀兵。
Còn từ …
     *MÂU THUẪN 矛盾 :
        – MÂU  矛 : cũng là Một loại Vũ Khí ngày xưa dùng để tấn công. Ta thường gọi là cây Thương. Đây là một trong 214 bộ và cũng là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
                      Giáp Cốt Văn   Kim Văn Đại Triện    Tiểu Triện         Lệ Thư
                        Inline image
Ta thấy :
           Theo Giáp Cốt Văn là hình vẽ của một loại vũ khí đầu có 2 ngạnh, cán dài, đến  Đại Triện lại thêm những phần phức tạp ở đằng đầu cho dễ sát thương, và khi đến Tiểu Triện thì các phần được đơn giản hóa bằng các nét cong và thẳng.
                   Inline image
                           Mâu         Xà Mâu (đầu như con rắn)
Còn …
    – THUẪN 盾 : cũng là chữ Tượng Hình của Cái Mộc, Cái Khiên dùng để đở khi đánh nhau, theo diễn tiến của chữ viết như sau :
                          Giáp Cốt Văn    Kim Văn Đại Triện    Tiểu Triện         Lệ Thư
                            Inline image
 Ta thấy :
        Giáp Cốt Văn và Kim Văn Đại Triện phần trên là hình giống như cái mộc cái khiên để che chắn, bên dưới là chữ Mục là con mắt, tượng trưng cho cái mặt. Nên THUẪN cũng là dụng cụ dùng để chống đở, che chắn bảo vệ cho thân mình. Thuẫn thường dùng để che trước mặt, nên ai có người giúp đở, che chở, nâng đở ở phía sau lưng thì gọi là : Có HẬU THUẪN.
                  Inline image
                              MÂU và THUẪN
Nên …
        MÂU 矛 là vũ khí dùng để đâm, và THUẪN 盾 là cái Mộc cái khiên dùng để đở, như tích sau đây :
       Theo sách Hàn Phi Tử 韩非子- chương Nan Nhất 难一 : Có một người nước Sở ra chợ bán Mâu, rao rằng Mâu của ông ta rất bén nhọn, bất cứ vật gì cứng tới đâu cũng có thể đâm lủng được. Hôm sau, ông ta lại mang ra bán một cái Thuẫn, và lại rao rằng : Thuẫn nầy rất cứng chắc, không có vật bén nhọn nào có thể đâm lủng được cả. Có người hỏi ông rằng : Thế lấy cây Mâu hôm qua của ông có thể đâm lủng được cái Thuẫn này hay không ?!. Người bán MÂU và THUẪN cứng họng không trả lời được. Mới hay, hai sự việc cực đoan thì không thể song hành tồn tại cùng lúc với nhau được ! Cho nên…
                             Inline image
      *  MÂU THUẪN 矛盾 : là Hai hoặc nhiều sự việc trái ngược hẵn nhau, thì không thể nào tồn tại song song với nhau được.
    Còn…
      * CAN QUA 干戈 : là Chiến tranh, là Đánh Giặc, là Giặc Giã.
Ta thấy :
  – CAN và THUẪN cùng có nghĩa là Cái Mộc, Cái Khiên dùng để đở.
  – QUA và MÂU cùng có nghĩa là cây Mác, cây Thương dùng để chém để đâm.
       Nhưng CAN QUA và MÂU THUẪN lại diễn 2 ý hoàn toàn khác nhau :
       Nghĩa của CAN QUA là Chiến tranh, không có liên quan gì đến nghĩa của Mâu Thuẫn cả; cũng như Nghĩa của Mâu Thuẫn là Trái ngược nhau không có liên quan gì đến Chiến Tranh cả !
      Ta thường gặp các Thành Ngữ sau đây :
      – TỰ TƯƠNG MÂU THUẪN 自相矛盾 : là thành ngữ chỉ 2 sự việc trái ngược hẵn nhau cùng xảy ra cùng lúc với cùng một người hoặc cùng một hoàn cảnh, tình huống. Tự mình chống chọi lại mình !
      – DĨ TỬ CHI MÂU, CÔNG TỬ CHI THUẪN 以子之矛,攻子之盾 : là “Lấy cây mâu của ông để tấn công cái thuẫn của ông”, như ta thường nói là “Lấy gậy của ông để đập lưng của ông” vậy !
      – PHÁT ĐỘNG CAN QUA 發動干戈 : là Gây ra chiến tranh, là Gây sự đánh nhau. Ta nói là DẤY ĐỘNG CAN QUA hay DẤY ĐỘNG BINH ĐAO (Binh lính và Đao thương cũng tượng trưng cho Chiến Tranh) Như Nga hiện nay đang DẤY ĐỘNG CAN QUA để đánh chiếm Ukraina vậy.
     Qua các phần trên, mới hay “TẬP QUÁN NGÔN NGỮ” hay ho, mạnh mẽ và lý thú  biết chừng nào. Hai từ cùng nghĩa như nhau, nhưng theo thói quen sử dụng trong ngôn ngữ lại diễn hai ý hoàn toàn khác nhau như thế.
             Inline image
                  Dữ Thế Phù Trầm       Y Giá Phạn Nang            Can Qua    Mâu Thuẫn
         Hẹn bài viết tới !
                                                                                       杜紹德

                                                                  Đỗ Chiêu Đức

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác