QUÊ NỘI

Ngày đăng: 24/02/2014 07:21:46 Chiều/ ý kiến phản hồi (5)

 Bài quê ngoại vừa được lên trang một ngày thì có nhiều bạn đọc gửi thư về yêu cầu tác giả viết tiếp bài quê nội. Theo nguyện vọng đó, SOS đặt bài HTH viết cho bài quê nội, xin được giới thiệu cùng anh chị em (SOS)

 Cũng ở thế đất bồi, quê nội tôi (Huỳnh Tâm Hoài) ở Trà cú cũng có những giồng đất, nhưng vì nằm hơi sâu vào bên trong, lại sát bên sông Hậu, cho nên đất đai ở đây màu mỡ hơn. Phù sa sông Hậu vương nhiều nhánh vào đồng ruộng với phù sa đục ngầu. Những giồng đất hình cong lưỡi sóng định hình lâu năm, chạy dài như bất tận. Giữa những giồng đất là những cánh đồng bao la màu mỡ. Trà Cú có hai mùa nước: mùa nước lợ vào mùa chướng, khi gíó đưa nước biển theo triều dâng tràn vào đồng. Mùa nước ngọt là vào mùa mưa.Trên những giồng đất cư dân sống quần tựu đông đão. Ngừơi Khmer  lập nên những sóc, như sóc Xoài Xiêm, Xoài Thum, Sóc Ruộng….Có những giồng được đặt tên như Giồng Lức, Giồng Trôm. “Xi bai Giồng Lức, phoóc tức Giồng Trôm”.  Người  Việt  và Hoa một ít sống lẩn lộn với người Khmer ,còn lại đa số sống dọc theo các bờ sông như Ngã ba, Cầu Hanh, Ba Tục, Bến Dừa, Bến Thế, Bắc Trang…,hoặc ở giữa đồng lập thành những xóm  như Xóm Chòi , Xóm chùa…Ba sắc dân sống rất hòa đồng, họ chia sẽ với nhau trong những lễ tục địa phương.Và hôn nhân đã kết với nhau từ lâu đời. Những thế hệ “đầu gà đít vịt, Việt lai Khmer, Khmer lai Việt tuần tự ra đời là mối dây ràng buộc thương yêu giũa ba nhóm dân.

          Hồi năm 1945 Trà Cú có xẩy ra nạn “Cáp duồn” đấy là do bọn Thực dân Pháp xúi dục. Sau khi trở lại Đông Dương lần thứ hai. Với chánh sách chia để trị, chúng mua chuộc một số người Khmer theo chúng và đốc xúi tàn sát người Việt.Vào thời đó đa số người Việt vì lòng yêu nước đã theo phong trào Việt Minh “Nóp với giáo mang ngang vai’cùng đi đánh Tây. Một mặt chúng ve vãn Trung Quốc. Cho nên chúng chỉ  “Cáp Duồn” mà không có “Cáp Chi-inh” *.Bằng chứng là gia đinh tôi, ba tôi và chú tôi bị họ dùng phãng kéo ngay lôi ra đồng. Nhưng ông cậu tôi vào chùa xin với lục cả và chứng minh gia đình mìmh là người Tàu lai, nên kip thời được thã. Sau đó cũng vì quá sợ hải gia đình tôi mới chạy tản cư cùng bà con chòm xóm xuống tận đất Cồn Cù cho tới sau hiệp định 54 mới  hồi cư về sống ở Trà Cú  cho đến bây giờ.

       Ruộng đồng Trà Cú được phân chia sở hữu bằng những bờ đất. Dọc theo các bờ đất các loại cây như điên điển, ngò om, rau đắng mọc dầy….Về phía những vùng đất trủng  thì có hoa súng, hoa sen,  điên điển .

                                    Mấp mé bờ đê hàng điên điễn

                                    Hoa nở vàng theo dọc lối vể

                                    Hoa dưa mẹ ủ chua chua ngót

                                    Chấm tộ mấm kho khâm khẫm mùi

                                    Bờ sông bìm bịp kêu nước lớn

                                    Mẹ vẫn một đời sống chắc chiu

                                    Nuôi con khôn lớn thêm từng đứa

                                    Hoa điễn phận người chịu hẩm hiu

                                    Đất quê có đứa thành danh phận

                                    Có đứa bọt bèo sống nổi trôi

                                    Hương cũ một thời sao quên được

                                    Giữ chặc hồn quê chẵng đỗi dời

 

                                                   

        Những bờ đất lớn thường là những trục lộ dẫn vào sóc hoặc vào chùa.Hai bên đường cây trâm bầu mọc đầy làm bóng mát cho khách bộ hành dừng chân nghỉ mệt trong những trưa hè nóng bức. Có những con đường viền quanh sóc, là những lũy tre, đôi khi có những hàng cây dầu, cây sao cao ngất ngưởng.

       

 Trà Cú có nhiều sông ngòi. Dọc theo các bờ sông là những cây bần, cây dừa nước cành lá la đà trên mặt nước. Có những bãi đất ven từ sông chạy sâu vào bên trong, đó là những bãi bồi bởi phù sa. Các loại cây như  cây ráng, cóc kèn, cây bần… mọc dầy đặc. Có những vùng trũng  nước  ứ động và chưa rỏ phèn chĩ toàn là cây năng, cây ráng.Hồi nhỏ bọn trẻ chúng tôi thường hay đến những nơi nầy đễ bắt cá lia thia ở những bọng cây bần hoặc bụi ráng. Đôi khi rủ nhau đi hái bần chua ăn với mắm sống. Con mắm được xé ra. Cắn miếng bần chua, đưa vào miệng miếng mắm, cắn thêm một miếng ớt hiểm.Vị, chua, cay nhai trộn lẩn. Muốn ăn hoài luôn miệng….. Có lần vì chậm chạp tôi bị ong bần đốt mặt sưng vù, về nhà còn bị ba, má rầy cho một trận tơi bời.

                                                      Dĩa bần trong nhà hàng

        Đời sống nhà quê thường có những bữa cơm đạm bạc, cá kho, canh rau là thưòng nhất. Má kho cá thường kho bằng ơ đất, cá được kho khi nước còn sền sệt, rắc thêm một ít tiêu, luộc vài bó rau muống đồng hoặc đọt lang, đọt bí. Gắp một đủa rau chấm vào nước cá kho, lùa một ngụm cơm trắng, ăn hết chén nầy sang chén khác. Ực thêm môt chén nước cơm chắt nóng hổi. Mồ hôi ra dầm dề. Ngon ơi là ngon! Nhiều lúc bận việc làm ăn má làm một mẻ nước mắm kho quẹt với tóp mỡ. Dùng đủa quẹt một cái.-đưa vào miệng, và thêm miếng cơm, nhai từ từ thấy cũng đã…

        Khác với Cầu Ngang, Trà Cú có nhiều đồng ruộng và sông nên cá đồng rất nhiều như cá lóc, cá rô, cá trê, cá bóng dừa, bóng cát, tôm càng, tép bò, tép thẻ, tép đất…Vi có ba sắc dân cho nên thức ăn cũng được trộn lẩn. Bún nước lèo thịt heo quay không bao giờ thiếu trong các đám tiệc của những gia đình Việt, Hoa. Xì dầu, cải xá pấu không bao giờ thiếu trong những gia đình người Khmer “Phoọng tẹ chiên với cải xá pấu”**

                               Châu thổ xa rồi châu thổ ơi

                               Phù sa lớp lớp đất bãi bồi

                               Cây bần cây, đước chân giữ đất

                               Châu thổ chia nguồn châu thổ ngơi

                               Đất hứa từng đàn chim qui họp

                               Bên mặn bên bồi, bên ngọt sâu

                               Trái dạt sinh sôi ngày châu thổ

                               Người đứng bên trời người gió khơi

                               Vùng đất chim kêu cùng vượn hú

                               Bây giờ hương ngát tiếng à ơi

                               Kẻo kẹt xóm trưa gà gáy ngọ

                               Bâng khuâng cô gái đứng dưới dừa

                               Đồng sâu con chó cong đuôi chạy

                               Mõi cánh cò bay trắng góc trời

                               Khói ám trên đồng thơm rạ mới

                               Từng đàn chuột chạy trẻ rong vui

                               Châu thổ mênh mong người chân chất

                               Dẩu nát tim bằm cũng sắt son

                               Giữ lòng yêu nước nên giữ đất

                               Khó ai mua chuộc được tấc lòng

                               Ai đó phụ tình lòng châu thổ

                               Châu thổ miệt mài lấp biễn khơi

                               Bồi lấn thêm ra thềm tổ quốc   

                               Châu thổ xa rồi châu thổ ơi!

                                               

                                               (Bài ca Châu thổ)

 

 Quê hương một vùng kỷ niệm khó bức rời trong tâm khãm mỗi người. Quê nội Quê ngoại là một hoài niệm, một nhớ nhung trong ký ức, một chập chờn trong những giấc chiêm bao, một thức giấc trong bồi hồi giửa canh khuya nơi đất khách .

Huỳnh Tâm Hoài

————————————————-

               *Chi-inh  là người Hoa theo cách gọi của người Khơ Me

             ** Tiếng Khmer lẩn tiếng Việt có nghĩa là hột vịt chiên với củ cải muối

                         

                                                                          

Có 5 bình luận về QUÊ NỘI

  1. Nhóm YAMAHA nói:

    Anh Tâm Hoài kính ! Thấy trái bần TN lại thèm nhớ mắm cá sặc, cá linh xé nhỏ ra ăn với trái bần , cơm nguội ( phải là cơm nguội mới sành điệu) . Còn nhớ thuở còn đi học thầy kể về cây bần, nhưng không còn rõ lắm (anh Tâm Hoài và Thầy ĐKP giúp chỉ bảo thêm), lúc Vua Nguyễn Ánh bị đuổi chạy về sông Tiền (không nhớ địa danh) vào nhà dân, đói lã , dân nghèo có chi ăn,đãi vua trái bần non, mắm sống, cơm nguội, vua khen ngon và ăn hết luôn còn nhờ dân chỉ cho biết cây bần, nhìn cây bần tự mọc ở hai bên bờ sông thấy cũng thơ mộng, vua đặt tên là Thủy Liễu, hồi đó nhỏ dại Thầy kể sao nghe vậy, chớ nếu bây giờ TN hỏi thầy : ” khi  vua thấy cây bần có lẽ lúc nước lớn, chớ lúc nước ròng cạn, toàn là rể bần dữ quá, vua đặt tên gì thưa Thầy ? ”

                                                                                                                   Thanh Nhi

  2. tamhoai nói:

    Xin thầy của Thanh Nhi giãi đáp câu hỏi của TN dùm,còn tôi, thú thiết chỉ biết cây bần mọc ven sông ngòi ở miền Nam hoặc trên những cánh đồng đất còn hoang dã…. Ký ức về cây bần và trái bần chỉ là những chuổi ngày của tuổi thơ đã qua.Trân trọng.HTH

  3. Hoàng Hưng nói:

         Khoảng năm 1970 tôi đọc được chữ “cap duon” trên những nhật báo ở Sài Gòn, sau đó nhiều người Việt ào ạt hồi cư,  chánh quyền lúc đó thành lập trại tỵ nạn tại Vũng Tàu để tiếp nhận những người hồi cư và được sự giúp đở của Liên hiệp Quốc. Tiến sĩ David Robert giáo sư sử học University of Ulster, Northern Ireland cho rằng Sam Rainsy đã phân biệt chủng tộc khi gọi người Việt là Duon (Youn)   Sau đó Kenneth viết bài phản biện cho rằng Duon phát âm từ chữ Yueh (Việt)   Khieu Samphan là người đầu tiên dùng chữ này trong văn thư gởi ông Akashi là lảnh đạo của United Nations Force.

  4. tamhoai nói:

    Hoàng Hưng thân mến,

        Tôi ở Trà Cú từ nhỏ, bạn đồng lứa của  tôi  là con cái của người gốc Khơme, vào các lể lạc của người Khome tôi đi vào các chùa Miên.Với sự chung đụng hằng ngày nên biết chút ít về tiếng người Khơme ở đây.

    HTH

  5. NGUYEN TUYET nói:

    Diã bần hấp dẫn tuyệt vời , quê nội cuả huynh cũng đẹp chán phải hong huynh , có súng , có sen , có điên điển đẹp tuyệt trần , tới muà hoa trổ  đẹp nhớ hoài khó quên , hồi nhỏ NT có dịp đi theo xuồng , ghe với anh chị em bà con , NT cũng thích đòi ghé vô bờ sông hái trái bần đẹp để ngắm chơi , NT nhớ là ăn sống nó chát và chua lắm , hỏng có ngon , nếu chấm muối thì ăn cũng đở đở thôi , nhưng hỏng hiểu sao nhà hàng trưng bày cái diã bần hấp dẫn đến phát thèm , chắc chỉ phù hợp cho phái ” Đế” mà thôi. Huynh TH tả đời sống đơn sơ cuả quê làm  NT cũng nhớ hồi nhỏ về quê ăn cơm giản dị mà món nào cũng cảm thấy thích và ngon miệng , ban ngày thì vui chơi , còn ban đêm thì đốt đèn dầu nên buồn hiu , thỉnh thoảng mới thấy đốt đèn mang sơong gì đó , nhưng tối tối chiều là vô mùng ngủ sớm rồi , chỉ có vui với cái radio để nghe kể chuyện , hay nghe cải lương.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác