Thời thơ ấu của Long
Lời Tâm Sự: Mỗi người, mỗi nhà có cách dạy con, dạy cháu khác nhau. Ba, má để cho tôi tự do vui chơi, học tập từ khi tôi đủ lớn. Họ không áp đặt tôi phải học việc nầy, hay làm việc nọ. Có thể nói, từ nhỏ tôi đã được quyền tự quyết, chỉ một lần bị ép buộc là lần bị buộc phải… cưới vợ. (Việc nầy xảy ra vào năm 1985 – 86.) Lúc nhỏ, dù tôi là con trai duy nhất, lại là cháu đích tôn, họ cũng không sợ tôi bị bắt cóc, thế là tôi tha hồ la cà, rong chơi. Vì Vĩnh Long là quê nội và cũng là quê ngoại nên năm nào tôi cũng về Vĩnh Long chơi, ít thì mười bữa, nửa tháng, nhiều thì một, hai tháng hè, nhỏ thì đi cùng gia đình, lớn thì ba má cho tiền mua vé xe tự đi. Đặc biệt có hai năm 1968 và 1969 tôi ở Vĩnh Long để đi học. Mà dòng họ tôi nghĩ cũng lạ, hình như họ có hợp đồng (ngầm) trao đổi con: Khi thì ba, má tôi nhận nuôi một, hai em ( nuôi phụ vì cô Tư đông con nhỏ), khi thì tôi đến nhà cô, nhà chú sống trong mùa hè. Cũng vì thế, dù là anh em họ nhưng chúng tôi sống rất chan hòa, và chúng tôi có đặc điểm rất hay (nhất là tôi): Sống ở nhà nội cũng được mà nhà ngoại cũng xong; sống trong nhà cô, nhà chú cũng như sống trong nhà mình.
• Bà nội và bà ngoại của tôi hình dáng, tính tình, cách sống rất khác nhau, và qua thời gian sống chung với nội và ngoại, những điều tôi nhập nhiễm khi sống chung, hay những điều được hai bà trực tiếp dạy cũng khác nhau, nhưng rất may là tôi đã được nhận tình thương yêu vô bờ bến của cả hai người.
———————-
Từ năm 1965 ở Phước Long thường hay có đánh nhau. Tình hình an ninh càng tệ đi từ đầu năm 1967, thế là mùa hè năm đó chị em tôi được ba, má gửi về nhà bà ngoại ở Vĩnh Long để tiện việc học hành. (Cạnh nhà ngoại là nhà dì Tư, mà theo truyền thống Việt Nam ta thì dì cũng như mẹ.) Tôi còn nhớ dáng ngoại cao, mái tóc màu xám (không phải đen) dù đã già nhưng tóc không bạc, chỉ thấy ngoại tự thắng dầu dừa để hàng ngày dùng vuốt tóc. (Mỗi lần thắng dầu dừa ngoại không quên chừa cho tôi vài muỗng canh “khô dừa” còn hơi vàng, món khoái khẩu của tôi, nhưng chỉ chừa ít thôi, ăn nhiều quá sợ Tào Tháo rượt!) Sóng mũi của ngoại cao với đôi mắt xanh lơ hiếm thấy ở người Việt. (Tôi có gặp bà Út, em kế của ngoại, nhưng hai chị em không giống nhau tí nào, còn mấy cậu, dì và má tôi không ai có màu mắt xanh hiếm có ấy.) Ngoại ăn trầu nhưng rất kỹ, không nhả bã trầu bừa bãi. Người ngoài đến nhà chơi cho đến khi thấy ô trầu, hay hàm răng đen, mới biết ngoại ăn trầu. Lúc ngoài 60 tuổi khi bị rụng một chiếc răng, ngoại mừng lắm. Ngoại vẫn nói, “Người già chết đi mà hai hàm răng còn đủ con cháu làm ăn không lên.” Ông ngoại mất đã lâu trước khi tôi ra đời nên tôi hoàn toàn không biết gì về ông, chỉ nghe nói trong thế chiến thứ nhất ông qua Pháp làm lính thợ, sau chiến tranh hồi hương và cưới bà. Ngoại nuôi được 5 người con: Cậu Ba, dì Tư, má tôi thứ năm, cậu Bảy và cậu Tám. Cậu Ba có nhà riêng cách đó không xa, nhà dì Tư cạnh nhà ngoại, còn cậu Bảy và cậu Tám là quân nhân rày đây, mai đó.
Ba chị em tôi sống quây quần bên ngoại, được sự chăm sóc, thương yêu của ngoại và dì Tư (vốn không con). Chung quanh nhà đất còn trống nhiều, nhất là phía sau, nên ngoại có trồng mấy luống hoa và một số cây: Mấy cây cau và một bồn trầu để ngoại ăn, cây vú sữa già có thân to hơn vòng tay ôm của tôi cho trái nhỏ nhưng cực ngon, (mỗi lần leo mỗi lần khó vì cây quá cao, thế là tôi ở trên cây hàng giờ và ănkhông dưới chục trái, có thể kết luận: trái vú sữa rất hiền, ăn nhiều nhưng không bị trúng thực, không bị nặng bụng), cây khế ngọt cho trái rất ngon (có thể là do mọc cạnh cây “cầu tủm!”), cây khế chua cho trái rất to, đẹp ngoại thường dùng xắt lát nấu canh. Còn hai cây bưởi Biên Hòa, và cây dừa lửa Tam Quan (Bình Định) mới trồng sau nầy, tôi nghĩ đó là tấm lòng thương nhớ của ngoại dành cho hai cậu, vì những cây nầy được lấy giống trồng sau những lần ngoại đến thăm địa phương hai cậu đóng quân.
Ngoại rất thương tôi vì tôi là cháu ngoại trai duy nhất, lại chịu khó học hành và siêng năng việc nhà, luôn chu toàn mọi việc được giao: Trời mưa lo hứng nước mưa, lọc bụi, lá rồi xách chuyền vào dãy mái to trữ để nấu ăn, uống quanh năm. Khi con mương trước nhà nước đủ lớn thì xách nước tưới hoa, tưới cây và đổ đầy lu, khạp cho gia đình sử dụng, cũng như chăm đầy lu nước uống ven đường cho khách bộ hành… Lúc nhỏ tôi thích xách nước là có lý do riêng. Trời mưa thì được tắm mưa, còn song song hẻm Huyện Cự là con mương có chiều rộng hơn chục mét (giờ đã bị lấp), cây cầu bắc qua mương là nơi tôi thường chơi trò “vũ qua bắc hải” khi còn nhỏ, mỗi khi nước lớn đủ tôi lại hăng hái đi xách nước, cứ xách vài thùng thì vờ té, rồi vịn sàn nước thả người trên mặt nước đập chân đùng đùng (từ đó có câu nói: Quậy đục nước. [?]), sau một thời gian tôi biết úp ngược thùng làm phao để bơi, sau nầy bơi giỏi thì không cần. Cứ làm như thế nên tôi biết bơi khi nào không biết. Còn việc nhà không phải tôi siêng mà tôi làm vì tò mò, muốn học hỏi: Những khi ở nhà ăn hến, ăn sò ngoại cho gom vỏ chứa vào một góc, đến lúc có khá nhiều sẽ đổ ra chỗ trống rồi chất cành, nhánh cây khô lên đốt nung thành vôi. Chỗ vôi nầy sẽ được chứa trong lu đậy kín để đổ dần xuống hố rác sau nhà cho bớt hôi và rác mau mục. (Việc vỏ hến, vỏ sò vốn rất cứng nhưng sau khi bị nung trở thành vôi dạng bột, với tôi lúc ấy, là cả một điều kỳ diệu, nó làm tôi muốn lớn lên sẽ học ngành Hóa.) Còn tôi siêng thu gom tàu lá cau vào cho ngoại là để học cách làm quạt mo, uốn mo cau làm gàu tát nước, tước gân lá cau để bó chổi tàu cau… Hàng xóm nhà ngoại (hơi chếch phía sau) là nhà chú Năm Thành, con gái lớn chú Năm rất xinh, tên Cúc, nhỏ hơn tôi vài tuổi nhưng vì Cúc là chị của rất nhiều em (Ba đèo, Bé tư, Bé năm…), trong khi thím Năm lại hay bị bệnh nên Cúc ít có thời gian để chơi, còn tôi lúc nhỏ hiếu động, ham vui, ham đi chơi, ham đi bơi, không biết chơi trò kéo mo cau nên không có kỷ niệm nào lãng mạn. Mấy năm sau nầy, khi ngoại đã luống tuổi, thấy ngoại đi đứng khó khăn nhất là phải trèo cao thắp nhang trên các trang thờ nguy hiểm, tôi nói ngoại để tôi làm thế. Ngoại đồng ý nhưng dặn: “Bàn thờ thông thiên phải được thắp nhang đầu tiên, sau đó mới đến thắp nhang bàn thờ Phật, bàn thờ tổ tiên.”
Hàng năm, gần đến tết mẹ lại về Vĩnh Long rước chị em tôi lên Phước Long ăn tết và để gia đình sum họp. Tết Mậu Thân ở Phước Long có đánh lớn. Sau tết phải hơn 10 ngày mới tạm yên, má đưa chị em tôi ra phi trường Phước Bình đáp phi cơ về Sài Gòn, rồi đi xe đò về Vĩnh Long. Về đến nơi chúng tôi thấy bàn ghế và nhà ngoại lỗ chỗ vết đạn. Ngoại kể do bị trực thăng bắn rocket, nhưng cũng may trúng vào ngọn cau nên nổ trên không, văng mảnh xuống. Lúc ấy ngoại trú ẩn dưới gầm bộ ngựa gỗ mun đen khá dầy kê trong nhà. (Vùng nầy đất có mực thủy cấp cao, đào xuống vài tấc là nước chảy ra nên không đào hầm âm xuống đất trú ẩn được, chỉ có thể đấp hầm nổi, hay … chui gầm giường.)
Từ nhỏ tôi nghe nói ngoại gốc ở xã Tân Ngãi, là con gái áp út (thứ chín) của một gia đình khá giả, có nhiều đất nhưng do bất đồng về cách phân chia tài sản sau khi ông, bà cố qua đời, mấy chị em ngoại đâm ra hiềm khích với nhau, thậm chí phải đưa ra tòa. Khi một việc đã phải giải quyết bằng lý thì đâu còn chỗ cho tình? Và người thời xưa còn nhận xét: Vô phúc đáo tụng đình. Nhận xét nầy cực kỳ chính xác do đất đai, tài sản ra đi (do án phí và tiền mướn thầy kiện, một thời gian dài không thể làm ăn mà chỉ chờ ngày ra hầu tòa… ) mà hiềm khích ngày càng sâu sắc. Cũng vì thế khi lớn tôi chỉ nghe nói về quê ngoại Tân Ngãi, chưa một lần chính thức về đấy thăm bà con. (Thật ra khi mới sinh, tôi có sống ở Tân Ngãi gần năm, lúc ba tôi đóng đồn ở đó.) Việc tranh chấp chủ yếu là giữa ngoại và bà Bảy, chị của ngoại. Ở Tân Ngãi, thân cận nhất còn có bà Út, em nhỏ nhất của ngoại, không liên quan trực tiếp đến việc tranh chấp. Hè 1965 tôi về Vĩnh Long ở chơi với ngoại và đã chứng kiến một việc thật cảm động. Một buổi sáng có chiếc xe lôi chở ba người dừng trước nhà. Hai người dìu một bà cụ xuống xe rồi đi qua cầu để vào nhà. Dì Tư của tôi nhìn thấy đám người ấy, nhận ra bà con nên nói to: “Có dì Út xuống chơi.” Khi tôi và ngoại bước ra đến hiên thì thấy cảnh bà Út khoát tay, không nhận sự giúp đỡ của hai người con đi cùng nữa, mà tự … bò lên thềm để vào nhà. Bà ngoại tôi vội đi đến bên bà Út, hai chị em ôm nhau khóc. Mấy tháng sau bà Út mất. (Bà Bảy đã mất trước đó mấy năm.) Ngoại mất giữa tháng 5, năm 1968. Tôi không thể đưa ngoại đến nơi an nghĩ cuối cùng vì hôm ấy phải thi đệ nhị lục cá nguyệt. Sau khi ngoại mất, hai chị của tôi sợ ma nên sau buổi ăn chiều liền kiếm cớ đi đâu đó, đến khá khuya canh giờ đồng loạt về nhà chui thẳng vào mùng ngủ. Lúc đầu tôi không hiểu ý của hai chị. Mọi sinh hoạt tôi vẫn tiến hành bình thường: Sau khi ăn cơm tôi đi thắp nhang các bàn thờ, trang thờ rồi học bài, làm bài, xem truyện…Tối tối, hàng xóm, người đi ngoài đường nhìn vào nhà ngoại thấy cảnh dưới ánh đèn điện vàng tù mù, thấp thoáng một bóng người đi lại với nắm nhang cháy đỏ trên tay, trong căn nhà cây cối vây quanh và những đốm (bóng đèn) đỏ trên các trang thờ. Sau nầy, hai chị, cũng như nhiều hàng xóm hỏi, “Bộ không sợ sao buổi tối dám ở nhà một mình?” Tôi trả lời theo suy nghĩ bản thân: “Ngoại khi còn sống thương yêu tôi thì có gì phải sợ? Nếu ngoại có (hiện) về thì cũng là để ban phước, giúp đỡ tôi mà thôi.” Tôi chưa bao giờ nằm mơ thấy ngoại. Chắc linh hồn ngoại đã siêu thoát.
Bà nội tôi nhỏ người nhưng nhanh nhẹn, khỏe. Chị em tôi là cháu nội đầu tiên nên rất được nội thương, thường dẫn đi chơi, mua quà, bánh. Nhà nội ở hẻm Lò Rèn, khu cầu Lầu, nhưng nội hay đến nhà tôi, trong trại gia binh phía sau chợ Vĩnh Long, nhất là vào buổi trưa. Vì trại gia binh mái nhà lợp fibro cement nên buổi trưa rất nóng. Nội cầm theo manh chiếu rồi dẫn chị em tôi ra mấy thớt thịt ở chợ, phủi bụi, trải chiếu cho chúng tôi nằm, ngồi quạt cho chúng tôi ngủ. Xế chiều, khi trời mát thì dẫn chúng tôi đi chơi: Ra cầu tàu, qua đài liệt sĩ, đến rạp Lê Thanh xem hát… hình. Nội có thú vui, có thể nói là đam mê, đánh đề nhưng không đánh lớn, chỉ vừa đủ để huyện đề chịu biên. Những ngày như Thứ ba có xổ số là trong túi nội có một… lá sớ dài. Từ đó chị em tôi biết số 1 là con cá trắng, 26 là con rồng, 35 là con dê… Hôm trật thì êm ru, hôm nào vô một vài số là hôm ấy bà, cháu rôm rả. Sau này khi ba tôi lên Phước Long làm công chức, mùa hè chị em chúng tôi về Vĩnh Long chơi, xuống nhà nội, buổi trưa nội bày luộc ốc gạo, ốc lát, nấu khoai, nấu chè chuối, bánh chuối, những thứ dễ làm, để chị em tôi phụ làm và vừa bán, vừa… ăn, thay vì chơi nhà chòi chỉ được ăn “mì ngóng, cháo ngó, hủ tiếu dòm”, theo lời của nội. Thế là người nào việc nấy: Người đâm ớt ngâm ốc cho sạch, người tước gân lá dừa rồi cắt khúc để lể ốc đắng, ốc gạo, hay bẻ gai bưởi, lấy chân nhang làm cây lể ốc lát, ốc bươu (tội nghiệp cho mấy cây bưởi trồng gần mương trước nhà, chúng sống không nỗi khi có chúng tôi về nghỉ hè), còn người lớn đâm nước mắm ăn ốc. Chào hàng, kêu gọi con nít trong xóm đến mua đã có nội. Các bạn nhỏ trong xóm thấy có người … Sài Gòn mới về ra ngồi bán hàng, lại đông vui nên tò mò đến ăn. Khi bán được tí tiền nội sẽ nghĩ ra việc khác cho chúng tôi làm… ăn: gần nhà nội có lò bún, còn chợ cầu Lầu đâu xa gì. Tôi nhớ mãi bún mới ra lò còn ấm, được bắt trong cái bội xinh xinh kết bằng lá chuối, to hơn bàn tay xòe của người lớn. Tôi giỏi giò ra chợ mua dưa leo để về bầm nhuyễn ăn với bún, chan bằng nước mấm ăn ốc còn thừa. Nội thích ăn vặt và không quan trọng buổi ăn chính. Trong nhà bao giờ cũng có khoai luộc, bắp luộc, bún, bánh bò… Đây là điều đám cháu của nội cực thích. Khi chị tôi lớn, không chịu làm những việc buôn bán ốc, khoai … đã có mấy em con cô Tư tôi thế chỗ. Buồn cười nhất là lần em Giàu luộc khoai bằng lá lợp nhà cũ. Luộc khoai thì mất thời giờ, còn lá lợp nhà cháy mau tàn, luộc chín nồi khoai mặt em cũng đen như mặt … bà Táo! Độc chiêu của nội là món sương sa hột lựu nấu bằng rau câu ta. Hình như nội thương cháu trai hơn cháu gái. Đi đám, tiệc nầy nọ nội chỉ dẫn theo cháu trai. Khoảng 6 – 7 tuổi tôi bắt đầu làm “tiểu đồng” cho nội. Khi tôi đã lớn, nội tuyển em Dũng, con của chú Năm thế chỗ. Nội không biết đọc nhưng có trí nhớ cực tốt. Trong họ hàng nhà ai có giỗ, vào ngày nào, nội nhớ vanh vách. Việc đi dự đám giỗ được nội chuẩn bị chu đáo. Áo dài được nội xếp thật ngay để dưới gối lót đầu nằm một đêm cho thẳng, quà cáp cho đám giỗ được mua trước và xếp cẩn thận vào mâm quả bằng thiếc có nấp, sơn màu đỏ. Khi bắt đầu đi tờ báo gói áo dài được cắp dưới nách, đến gần nơi có đám nội bước vào đám cây ven đường lấy áo dài ra mặc, cháu đầu đội (lúc còn nhỏ) hay bưng mâm quả (khi lớn), hai bà cháu đường hoàng vào nhà. Tôi thích nghe nội nói với họ hàng câu: “Con thằng ba đó.”
Năm 1987 anh em chúng tôi tích cực “sản xuất”, kết quả cho ra đời thêm 4 thành viên: thêm bốn đứa cháu cố cho nội. Nội qua đời ngày 26 tháng 12 năm 1987, hai hôm sau ngày vào bệnh viện phụ sản quận 5 xem mặt Vy, đứa cháu cố thứ 4 ra đời trong năm Mẹo. Có người xấu miệng nói, “Tuổi Tí gặp năm Mẹo khắc, đã là xấu, nhưng còn gặp một lúc những 4 con mèo, con chuột chịu gì thấu!”
Nguyễn Hoàng Long
Đã từ lâu tôi rất thích đọc tự truyện, hồi ký, nhất là những hồi ký tuổi thơ trong khung cảnh dân dã, miền quê, có thể điều này đã nhắc tôi nhớ lại tuổi thơ của chính mình. Cô bạn tôi người Hoà Lan là BS tâm lý có lần đã nói, muốn trị bệnh tâm lý bắt buộc phải tìm hiểu về những gì đã xảy ra trong thời thơ ấu của bệnh nhân……..cũng từ đó chúng ta có thể suy ra, tuổi ấu thơ là thời gian căn bản để tạo nên bản chất cũng như đời sống nội tâm của một người. Nguyễn Hoàng Long đã may mắn có một tuổi thơ thật đẹp, thật năng động, trong sự thương yêu của hai bên nội ngoại. Tính thông minh và tài quan sát được tự do phát triển và thể hiện ngay khi còn nhỏ, nhờ đó mà ngày nay tác giả đã viết nên những đoản văn rất linh động, lôi cuốn người đọc về tuổi thơ đa dạng của mình.
Em cám ơn Cô.
Anh Hoàng Long ơi! Môt lần nữa, MN phải khâm phục trí nhớ và óc quan sát tinh tế của anh. Một thời thơ ấu thật êm đềm trong tình thương yêu của gia đình, nội, ngoại đã được anh kể lại một cách mạch lạc, thu hút người đọc. Qua đó cũng thấy được lòng thương yêu sâu sắc của anh đối với hai bà của mình, có lẽ đến hôm nay vẫn chưa phai nhạt.
Chúc anh luôn vui, viết khỏe…
Vừa đọc tựa bài : Thời Thơ Ấu là thấy thích , trúng tủ rồi . Để xem Thời thơ ấu của ai đây? À thì ra là bài viết của anh Nguyễn Hoàng Long , tác giả của những chuyện xưa rất xưa đây mà . Như đã nói , tôi mê đọc tản văn kể về miền quê ., thích đọc hồi ký nhất là phần mở đầu ( phần hồi ức tuổi thơ ).
Anh Long kể chuyên rất tự nhiên và thu hút , hấp dẫn người đọc . Tuổi thơ của anh sống động , vui với nhiều kỷ niệm đẹp đáng nhớ . Tôi đọc thích thú lắm ,như ngày xưa còn bé thích đọc Tuổi hoa đỏ , những truyên phiêu lưu , đùa nghịch thời tiểu học .
Cám ơn tác giả đã đưa tôi về vói những kỷ niêm thời thơ ấu của thế kỷ trước . Tôi chợt nhớ về tuổi thơ của tôi , nhớ ba mẹ ,anh chị ., nhớ dòng sông tuổi thơ êm đềm :Long Hồ , quê hương mến yêu .
Tuổi Hoa tím mới lãng mạn.
Học sinh tiểu học chỉ đọc Tuổi hoa đỏ .Đến tuổi trung học mới đọc Tuổi hoa tím . Nhớ tác giả Thuy An .
Nhớ con đường lá me : Trần Quý Cáp. Tuổi hoa tím lãng mạn nhưng có tác dụng giáo dục tốt lắm đó .
Đúng là như vậy. Xưa lắm rồi. Đó là những việc xảy ra trong thế kỷ trước, của thiên niên kỷ trước!
,, Bài viết hay , vui ,,tuổi nhỏ bản lĩnh , nhận tình thương yêu đầy dủ bên nội ngoại , đứa trẻ phát triễn tâm sinh lý hiền hòa ,,Cảm ơn bài viết hấp dẫn . Hoành Châu (Gia đình C )
Chị Hoành Châu thấy tôi có xứng đáng là người Vĩnh Long “cố cựu” chưa? Có mấy người Vĩnh Long, dù “thật xịn”, từng ngủ thớt thịt chợ?
Bạn Hoàng Long kể chuyện thời thơ ấu thật thú vị, hay lắm bạn ơi!
Chờ xem. Còn nữa.
Một kỷ niệm thời thơ ấu êm đềm bên nội, ngoại làm sao mà quên hả Hoàng Long…Cô rất thích cách hành văn của em, vừa giản dị mộc mạc chính nhờ vậy bức tranh đời sống hiền hoà của người dân miền nam được vẻ lại rất đậm nét…Nói vậy chớ, khi em viết những đề tài khác ( như thời s.v ) văn phong cũng thay đổi ,làm cho bài viết đi sâu vào lòng người đọc.
Em cám ơn Cô.
Rất thích đọc những hồi ức của anh Hoàng Long viết về tuổi thơ, gia đình, quê hương … . Phải nói trí nhớ của anh thật là siêu việt. Trong bài anh có viết những năm 68 – 69 anh học ở Vĩnh Long, nhà ở trong trại gia binh sau chợ Vĩnh Long. Xin “mạo muội” được hỏi lúc ấy anh khoảng bao nhiêu tuổi và nơi ở đó có phải là trại gia binh của Liên đoàn 64 truyền tin ( trước hình như là tiểu đoàn 611 ) ở đường Hùng Vương ( sau lưng trường Tống Phước Hiệp ) không ?
Ba tôi là Vệ Binh tỉnh (Bảo An), nên đi nhiều nơi ở VL. Giai đoạn 1956 – 1957 gia đình tôi ở trong trại gia binh ngay sau chợ VL và dãy phố chợ (có nhà thêu Ngũ Châu) ngó qua bungalow. Trại gia binh sau này bị giải tỏa và có lúc làm trại tạm giam (trước 1975). Sau lần mở rộng chợ gần đây nhất, theo tôi đoán, khu này giờ nằm trong phạm vi chợ, cạnh khu ẩm thực đêm. Tôi sinh năm 1954, như vậy lúc đó được 2 -3 tuổi. Còn năm 1968 – 69 tôi học cô Hồng Khanh ở trường Tống Phước Hiệp.
Theo tôi nhớ, lúc đầu chợ VL rất nhỏ và chỉ gồm 2 khu đối diện nhau qua đường Tống Phước Hiệp: Khu chợ cá, rau, hàng bông thì ở sát bờ sông, và khu bán thịt (bên này đường) với những sạp được xây bằng cement. Những gì tôi viết ở đây có thể không chính xác vì lúc ấy còn quá nhỏ, bạn nào biết rõ hơn xin chỉnh, sửa hộ.
Anh Hoàng Long thân mến ! Rất cám ơn anh đã phản hồi sớm cho NT. Theo như anh viết thì chắc anh học cùng niên khoá với NT ( có học với cô Hồng Khanh, tốt nghiệp tú tài 1973 ). Từ 1965 – 1970 gia đình NT theo ba chuyển về Vĩnh Long, sống ở trại gia binh của Liên đoàn 64 ở sau trường Tống Phước Hiệp. Vì vậy cứ hy vọng cùng khu gia binh với gia đình anh, là hàng xóm để nhắc lại chiện xưa .(Hi!hi!… )
Chào chị Như Thùy,
Hàng xóm hay không thì trang nhà vẫn dành cho chúng ta nhắc lại chiện xưa mà. Tôi đang chờ nghe, à quên, xem chiện xưa của chị.
Ba tôi và tôi đều tuổi con ngựa, thời trẻ ông đi lính và đi khắp nơi trong tỉnh VL, rồi khi làm công chức ông lại đi tỉnh nầy, tỉnh nọ, dĩ nhiên “ngựa con” phải đi theo thôi! Trong một truyện trước đây của cô Khanh có viết, ở TPH cô chỉ dạy 2 cấp lớp: đệ ngũ là các lớp nữ, còn đệ tứ là các lớp nam. Năm học 1968-69 tôi học đệ tứ và nhờ trời thương nên tốt nghiệp THPT năm 1972, nhưng đó là chiện nhỏ. Chiện xưa chị kể mới là chiện lớn. Chào.
Hoàng Long nói đúng, ở TPH cô dạy hai cấp, đệ ngũ và đệ tứ. Tuy nhiên ở cấp đệ tứ cô dạy cả lớp nam lẫn lớp nữ, cấp đệ ngũ chỉ dạy lớp nữ mà thôi. Nhân đây cô cũng muốn sửa lại cho đúng là cô dạy TPH từ năm 1967-1970 và học trò cũ của cô đã rời trường vào những niên khoá 1971, 1972 và 1973.
Thời thơ ấu của anh Long dài quá,đọc mỏi cả mắt nhưng rất hấp dẫn đọc bài viết của anh gợi nhớ tuổi thơ của mọi người mà ai cũng có ít nhiều trong bài viết của anh.Anh Long có trí nhớ rất tuyệt, nhớ tỉ mĩ từ chuyện nhỏ nhặc, nghe anh nói về Nội,Ngoại làm em nhớ Nội Ngoại .Hình như tình cảm của những người bà đều giống nhau,thương yêu con cháu vô bờ bến.Bài viết anh rất hay,rất tình cảm đoc bài anh viết đễ nhớ lại một thời thơ ấu của mình.
Chào cô hàng xóm,
Nếu được như cô nói tôi rất hài lòng với công sức đã bỏ ra để viết. Khi viết bài nầy tôi còn nhằm gửi đến các em, các cháu trong gia đình, chia sẻ với các em, các cháu tình thương của hai bà dành cho con, cháu. Tôi cũng hy vọng: đã có thời thơ ấu dài thì thời tuổi… không còn nhỏ của tôi sẽ dài không kém.