Tam Nhân. Tứ Linh. Ngũ Thường
Trên một vùng đất Tam Bình cạnh dòng Mang Thít, ở khoảng mà dòng sông có dạng uốn lượn như thân rồng đang múa. Vào thuở xa xưa có một chùm xóm ấp được đặt tên mang hàm ý năm đức tính của người quân tử trong quan niệm Nho giáo như: Tường Nhơn, Tường Lễ, Tường Trí thuộc xã Tường Lộc. Cho đến những năm đầu của thế kỷ 20, thì Tường Ngãi và Tường Tín bị một đoạn kênh xáng múc ngang phải tẻ bầy. Vì thế mà hai ấp anh em nầy bị lìa ra để sát nhập vào xã Hoà Bình, Trà Ôn. Đến nay thì các địa phương đó đã thay bằng tên khác. Nhìn tổng quát trên các mặt địa lý và nhân văn từ thuở ban sơ, có thể suy đoán là ông bà tổ tiên nơi đó đã từng bước lập nghiệp và mong muốn con cháu ghi nhớ các đạo lý làm người mà đối nhân xử thế.
Truyền thuyết trong tộc họ Lưu địa phương. Khoảng giữa thế kỷ thứ 18, có ba anh em trai đi ghe từ miền ngoài vô Nam trong mục đích khẩn hoang lập ấp theo chính sách của các triều vua nhà Nguyễn. Tiên Thuỷ là địa danh mà nhóm di dân nầy bước lên và quyết định cắm sào định cư. Nơi đó hiện nay là xã Tân Thuỷ, huyện Ba Tri, Bến Tre. Sau một thời gian gầy dựng mọi thứ ổn định, hai người anh nhường nơi khai khẩn cho người em út sinh sống. Đoàn người tiếp tục dùng thuyền đi sâu vào đất liền để tìm vùng đất hứa. Họ đi ngược dòng Hàm Luông, băng ngang hai nhánh sông Tiền đến đất Long Hồ. Hai người anh theo con sông Xã Sĩ, đổ bộ lên vùng mà bây giờ thuộc xã Phú Đức huyện Long Hồ, Vĩnh Long.
Y khuôn như ngày đầu vô Nam, phận làm lớn là phải dốc lòng ra sức chăm lo chu đáo cho em. Anh cả nổ lực giúp người em kế ổn cư, rồi lại tiếp tục xuống thuyền đi tìm cho mình vùng đất mới. Địa điểm mà người anh cả chọn nơi định cư là vàm Mương Khai cạnh dòng Mang Thít thuộc làng Hồi Xuân. Bây giờ là xã Xuân Hiệp huyện Trà Ôn, Vĩnh Long. Không ai biết có phải vì ghe thuyền cũ kỹ bị hư hỏng khiến không thể đi xa, hay là người anh Cả tìm được vùng đất ưng ý. Mà vị trí đổ bộ thứ ba cách nơi thứ hai khoảng 25 km tính theo đường sông nối liền hai dòng chảy. So lại thì tương đương 1 phần 5 của chặng đường từ nơi định cư thứ hai ngược ra bến ghé cận duyên ban đầu.
Trong ba anh em, anh cả là người cuối cùng bước lên bờ lập nghiệp. Ông ấy có tên trên gia phả và mộ chí là Lưu Phước Tấn. Theo những người am tường lịch sử thì chữ Phước thời đó chỉ được vua ban cho những người có công với nước, chứ dân giả không thể tự đặt. Còn việc được vua nào phong tặng thì vẫn còn nghi vấn. Ông được sự thừa nhận là thuỷ tổ của phả hệ Lưu gia riêng trên vùng Tam Bình và Trà Ôn có nguồn gốc từ lúc đó. Ngài Lưu Phước Tấn có hai người con trai, người con cả là ông Lưu Văn Loan tự Phụng và người con thứ là ông Lưu Văn Phụng tự Loan. Tại sao hai anh em có tên chéo qua đảo lại thì có nhiều truyền thuyết giải thích trái ngược nhau. Ông anh Loan nghe lời phụ mẫu ở lại giúp cha phát triển từ vàm con rạch Mương Khai.
Ông em Phụng theo truyền thống gia đình là khi trưởng thành phải rời nhà để tự thân lập nghiệp. Cháu chít hôm nay tự hào tập quán của tiền nhân là chỉ giúp đỡ con cái ban đầu rồi để họ tự sống độc lập về sau. Sách lược rất khác những hộ giàu xưa áp dụng mô hình như một xã hội thu nhỏ với nhà ngang dãi dọc nối nhau, kho vựa tích lũy đầy tràn. Lúc nào cũng đông người giúp việc để nuôi chứa tất cả con dâu và những bầy cháu nội. Các con trai những hộ đó chia việc cùng nhau quán xuyến trong nom gia viên, điền sản tổ phụ. Người cha yếu sức hay qua đời thì con lớn thay tay kế nghiệp.
Tường Nhơn và Tường Lễ hôm nay vẫn được xem là vùng cư dân có cùng tổ tiên họ Lưu chiếm số đông từ những ngày đầu. Hơn hai trăm năm lưu truyền dòng tộc khởi thuỷ tại vùng Mương Khai, gia phả ghi chép đầy đủ mười mấy thế hệ con cháu cho đến hôm nay và tiếp nối di truyền ngàn sau.
Ông Lưu Văn Phụng sinh năm 1760, mất vào năm 1828. Sự nghiêp khẩn hoang của ông bắt đầu từ một phía bờ Mang Thít, dựa lưng vào đất thuộc của cha để tiến xuống hướng nam. Ông Phụng có tám người con và các thế hệ cháu chít đồ sộ. Như vết dầu loang trên mặt ao, càng ngày con cháu mở rộng phạm vi định cư, từng bước cùng với dân địa phương và các kiến họ khác tạo nên những xóm ấp, thôn làng trù phú.
Bao năm lao nhọc trôi qua, rồi cũng đến ngày xác thân trở về cát bụi. Nhưng sự nghiệp để lại muôn đời của ông là giúp con cháu khai khẩn một vùng phì nhiêu màu mỡ. Bản tính nhân hậu, chuyên cần, không nệ việc giúp người, ông đã khiến cho người đời mến mộ phẫm hạnh, con cháu ghi nhớ công lao. Đến khi nền hành chánh của các triều Nguyễn lần lần ổn định. Từ những năm trị vì của các triều vua Minh Mạng và Thiệu Trị, triều đình Huế chú trọng chính sách phát triển văn hóa, kinh tế và cũng cố làng xã hạ tầng. Trong đó có việc khuyến khích dân chúng lập miễu thờ phượng tôn vinh những vị lúc sống tận tụy phục vụ công ích, khi chết thì hiển linh phò trợ làng xóm cháu con. Quan chức địa phương được lệnh dò xét xác minh cá nhân ưu tú, dâng sớ trình lên triều đình về công trạng người của khai cơ mở đất, dựng nên làng xóm yên vui, nhất là phải được mọi người thừa nhận tài đức vẹn toàn. Và tùy tình trạng còn tại thế hay đã mất để ban thưởng hoặc sắc phong xứng đáng. 1852, năm trị vì thứ sáu, vua Tự Đức phê nhuận sắc phong Thành Hoàng linh vị, phong tặng mỹ từ “Đôn ngưng, Chánh trực, Quảng hậu” cho ông Lưu Văn Phụng tự Đức Loan, quê quán làng Tường Lộc. Tính ra 24 năm sau ngày ông mất, dân chúng sở tại tham chiếu lệnh vua mà lập nên ngôi đình thờ phượng ông tại ấp Tường Lễ.
Trải qua bao nhiêu thăng trầm và tu sửa, nền móng và ngôi đình thần vẫn còn nguyên vị cho đến hôm nay. Thời gian và chiến tranh khiến nhiều ngôi đình không còn giữ nguyên vẹn hoặc mất sắc phong, đình Tường Lộc cũng nằm trong trường hợp đó. Nhưng sổ bộ của triều đình Huế dùng ghi chép công việc ban thưởng sắc phong Thành Hoàng hiện vẫn còn lưu trữ ở Viện Bảo Tàng quốc gia. Ban Trị sự ngôi đình nào có yêu cầu tái tạo sắc phong, sẽ được một ban chuyên môn tham chiếu sổ bộ để cấp một phó bản có đủ triện son gần như bản gốc.
Cũng theo lời lưu truyền trong Lưu tộc. Vào những năm tháng rất sớm sau khi bước lên bờ lập nghiệp ở khu vực vàm con sông Mương Khai. Đang lúc mạnh khoẻ, ngài thuỷ tổ có ý chọn trước một khu đất cao thông thoáng làm nơi an nghĩ lúc lìa đời. Một hôm có ông lão bơi xuồng ghé vào. Ông ấy bước lên nhìn khu đất và nói với ông Lưu Phước Tấn đại ý thế nầy:
– “Tôi qua lại nơi đây nhiều lần, quan sát dòng sông thẳng tắp bao la mà đến đây nắn dòng uốn lượn, chảy chậm rải hiền hoà. Trên bờ thì chỉ một chỗ nầy đất tụ gò cao mà cây lá xanh tốt, cảnh quan sáng rực tươi vui, gió như luồng qua khe núi mà rì rào vô tận bốn mùa. Đứng nơi gò đất nầy giữa trưa mà mát mẻ, thần trí lâng lâng khoan khoái như lạc cảnh tiên thì quả đúng là huyệt Tứ Linh. Có thể là chưa đến thời hội tụ linh khí ngàn năm của thế long chầu hổ phục, phụng múa quy nghinh mà chưa sanh hiện tượng nước quần gió tụ, đất dậy nhô mình. Vì vậy không đủ uy lực giúp cho con cháu của ông sau nầy làm quan to hay vương tướng, một người nói muôn vạn người nghe. Nhưng vị trí an táng quá tốt nầy sẽ giúp các đời sau sản sanh nhiều thế hệ rạng danh hiền nhân quân tử, giàu có và tài trí vẻ vang. Ông muốn phụ giúp con cháu vượng phát thật tốt thì nhớ lời tôi nói. Lúc dọn cây để đào huyệt an táng, nếu con cháu bắt gặp một trong tứ linh thì giữ lại rồi đặt dưới lòng huyệt trước khi an táng, linh vật sẽ giúp linh hồn ông nương gió thăng thiên mà tiêu diêu tiên cảnh”.
Thời gian êm đềm trôi qua, nhưng điều không mong muốn cho cha ông mình cũng phải tới. Hôm đó có một số trai làng đến giúp đào đất chuẩn bị huyệt mộ an táng ngài thuỷ tổ, tình cờ họ bắt một con quy thật lớn. Quy là một loại rùa vàng chỉ ăn rau cỏ, thường thấy ở các ao sen hoặc xuất hiện hiền lành trên các sân chùa chiềng miếu mạo. Một ít người xem rùa vàng như linh vật và gọi tặng là ‘ông Quy’, như người đi biển tôn kính cá voi là ‘cá Ông’.
Dân làng nghĩ rằng vật dưỡng nhơn, họ bắt rùa vàng định mổ thịt. Người cháu nội trách nhiệm trông coi việc làm, nhớ lời của thầy phong thuỷ dạy phải làm gì nếu gặp tứ linh khi chặt cây dọn gò hay đào huyệt. Người cháu bèn ôm rùa ràng về nhà rộng lại và thông báo với thân tộc. Có lẽ quá bận rộn, lúc linh cữu của ngài Thuỷ tổ chạm đáy huyệt mộ, mọi người mới nhớ ra đã quên việc phải đặt linh vật phía dưới quan tài cho Thuỷ tổ cưỡi thăng thiên. Nghi thức nghiêm khắc của sự an táng không thể làm gì khác được, mọi người chỉ còn cách vớt vát là đặt ‘ông Quy’ trên nắp quan tài trước khi lấp đất.
Những năm gần đây trong các bàn tiệc, bàn trà ở nhà hay nơi Từ đường giỗ Tổ, con cháu họ Lưu thuộc phả hệ Cái Cá thường nghe câu chuyện truyền miệng nầy. Họ cứ tiếc là thuỷ tổ của mình thay vì được cưỡi quy mà lại bị quy cưỡi. Có người nghe xong, nghĩ ngợi một lát rồi tặc lưỡi:
– Giá mà tổ tiên mình được cưỡi quy lúc ấy, bây giờ tụi mình sẽ bốc đến cở nào nhỉ!
Một người ngồi trong bàn đáp lại:
– Cho phép người khác họ có đôi điều nhận xét: Ba vị thuỷ tổ “Anh em Lưu gia” của các bạn quá cẩn thận, tuy mất liên lạc hơn hai trăm năm mà còn lưu truyền cội nguồn gia phả để con cháu phăng tìm ba nhánh gom về một gốc trong những thập niên gần đây. Bốn linh vật của trời đất thì ít ra cũng được một hay nhiều hơn thì ai lượng được lộc trời. Còn ngũ thường hay năm điều hằng nghĩ hằng làm của bậc quân tử mà ông bà nhắc nhở, con cháu cũng noi theo gìn giữ và thực hành tử tế cho đến hôm nay.
(Bài nầy viết xuống như tiếp lời truyền miệng theo những người bạn trong kiến họ Lưu ở xã Tường Lộc, và xin tặng cho tất cả)
Một Lúa