ÔNG BÀ NỘI- NHỮNG NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN CỦA TÔI
Ông bà nội là những người thầy đầu tiên của tôi trong việc học chữ và học làm người. Lúc nhỏ, tôi không sống gần ba mẹ vì lý do ba mẹ tôi viên chức nhà nước nên làm việc tùy nhiệm sở phân công. Thường thì cha mẹ đi đâu thì mang con theo đó. Nhưng tôi thì lại khác. Được ông bà cưng hơn nên tôi chọn ở lại với ông bà, mặc dù mẹ tôi rất nhớ tôi, cũng khóc khi tôi ở lại. Còn ba tôi không thấy biểu hiện gì.
Lúc tôi 4 tuổi bà đi đâu tôi cứ lẻo đẻo theo như cái đuôi. Còn thấy ông tôi ngồi uống trà hay viết lách, làm công việc gì tôi cũng chui tọt vào trong lòng ông tôi ngồi gọn gàng. Ông tôi vừa làm việc vừa phải bế tôi. Lên 5 tuổi, ông tôi bảo cho đi học, được chữ nào hay chữ đó, đi cho quen lớp (như lớp 1 dự thính vậy, hồi đó chưa có mẫu giáo). Tôi đi học, và như vậy là học thiếu tuổi, lẽ ra phải 6 tuổi mới vào lớp 1 (sau này lớp 1 phải đủ 6 tuổi trường mới nhận). Cứ vậy mà lên lớp, vì thế ở cấp học nào tôi cũng là đứa nhỏ tuổi nhất.
Ông tôi được ông bà cố cho ăn học dưới thời Pháp thuộc. Ông hướng dẫn tôi viết chữ quốc ngữ. Đọc những truyện trong sách thiếu nhi hay xem một vở kịch, cải lương, tuồng cổ…ông đều bảo tôi kể lại cho ông nghe. Lúc thì tóm tắt cốt truyện, lúc thì nhớ gì kể nấy, chi tiết để rèn trí nhớ và văn bản khẩu ngữ cho tôi. Bà tôi thì mê dân ca và nhạc cổ truyền cả ba miền. Từ cải lương, ngâm thơ, tuồng,…bà tôi không bỏ sót chương trình nào, và tôi lại làm một khán thính giả đồng hành với bà tôi trong “công cuộc” thưởng thức các loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Còn truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ nữa,…tất cả đã cho tôi vốn ngôn ngữ và niềm yêu thích văn chương sau này. Mặc dù ông ngoại tôi dạy Quốc văn bậc trung học (Collège) dưới thời Pháp thuộc, nhưng ông tôi mất trước khi tôi ra đời nên tôi không được học với ông ngoại. Nhưng chút gen ông truyền lại ở mẹ tôi cũng yêu thích văn thơ và ham đọc sách.
Bà nội tôi là người nấu ăn rất ngon, làm được nhiều loại bánh đặc trưng của miền Trung. Các dịpTết, đám giỗ thì bà tôi thường thức nguyên đêm để nấu cơm cộ và làm các loại bánh như: bánh chưng, bánh tét, bánh ít, bánh lá gai,… nấu các loại chè như chè trôi nước, chè đậu xanh, chè bông cau,… để cúng. Nhà từ đường nên nấu dọn sắp đặt cơm cộ đủ 7 mâm theo tầng bậc từ cao đến thấp. Tôi nhớ những cái mâm bằng gỗ mít có chạm trỗ và có chân để tầng cao đến vừa, dành cho thứ bậc tiền nhân đời cố, đời sơ của tôi, đến tầng cuối là dọn trên chiếc mâm đồng. Tôi chỉ đãi vỏ được mớ đậu xanh và nhặt rau sống rồi đứng xớ rớ đợi bà tôi sai vặt. Nhưng bà tôi bảo:
– Cho con đi ngủ đi!
Tác giả Hoàng Thị Bích Hà
Thế là tôi đi ngủ khì một mạch đến sáng, sau này mới hối hận, lúc nhỏ gần bà lẽ ra phải làm phụ bà mà còn học nấu nướng nữa chứ. Sau này tôi không biết nấu ăn cho đến khi lập gia đình tôi mới tập nấu nướng. Món thì tôi học mẹ chồng, món thì học trong sách. Năm 20 tuổi, tôi mua cuốn 1000 món ăn Huế của tác giả Hoàng Thị Kim Cúc (nhân vật trữ tình trong bài Đây Thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử) học từ từ, từng ngày một.
Bà tôi có 4 cô con gái, hai cô con dâu và gần 100 đứa cháu chắt nhưng cho đến bây giờ chưa có ai nấu ăn ngon như bà nội tôi. (Kể cả 4 cô gần bà nhất nhưng khi lấy chồng, con đông lại thời buổi khó khăn nên nấu nướng kiểu đại trà). Nhất là các món lươn um: ví dụ lươn um chuối, lươn um riềng mẻ. Đặc biệt nhất là món lươn băm nhỏ ướp gia vị gì, màu mè, liều lượng sao đó rồi gói trong lá môn non mà nấu cách thủy, (ở quê gọi là lươn nấu ám) mà ăn ngon đến nỗi, tôi bây giờ đi qua hơn nửa đời người cũng ăn hàng, ăn chợ khá nhiều vùng miền mà tôi vẫn chưa tìm lại được vị lươn nấu ám như kiểu bà tôi nấu. Gần đây tôi có điện đàm cho cô Quỳnh (Q) là con của người em gái bà nội tôi. (Em gái út của bà tôi lấy ông thẩm phán dưới thời Pháp, nhà ở đường Nguyễn Thiện Thuật, Huế). Tôi cũng nói với cô Q về món lươn nấu ám. Cô bảo, cô nấu được, thỉnh thoảng cô vẫn nấu cho dượng và mấy con trai, con rể nhậu trong nhà. Chắc mai mốt tôi phải về học cho được món này.
Bà nội tôi cưng nên không cho làm gì cả. Bà bảo: “Con mảnh mai như ngọn lá lúa, lo học đi, kiếm ít chữ sau này có việc mà làm”.
Bà sợ sau này bà mất, không ai bảo bọc cháu sẽ khổ: “Ba má mày ở xa lại đông em, nên bây giờ bà còn sống ngày nào bà cho con sung sướng ngày đó. Sau này ra đời, đường đời gập ghềnh khúc khuỷu lắm chứ không bằng phẳng như đi trong sân nhà mình”.
Cô Tư, cô Út không nói gì, chỉ bình thường như cân đường hộp sữa, nhưng cô Hai thì không đánh giá cao về tôi, giữa cháu ruột của dượng (chồng cô) và tôi thì cô cho rằng tôi vụng, không ngon lành cành đào như cháu của dượng, ngược lại dượng lại có ý khen tôi. Bảo: Nó nhanh nhẹn, hoạt bát. Tôi không buồn cũng không vui (nhưng cũng lấy đó làm động lực để vươn lên). Vì tuổi thơ, tôi có làm gì đâu, biểu sao không vụng. Cô không đánh giá cao cũng chẳng oan tẹo nào.
Riêng cô Ba bảo: -Mệ cưng vừa thôi kẻo mai mốt lớn, không biết làm gì lại đâm hư!
Ngày 18/11/2025
Hoàng Thị Bích Hà
