Góc Cổ Thi : ĐẠI ĐẠO KHÚC của Tạ Thượng
Ngày đăng: 5/10/2025 06:41:51 Sáng/ ý kiến phản hồi (0)
TẠ THƯỢNG 謝尚 (308—357)tự Nhân Tổ 仁祖, người huyện Dương Hạ, quận Trần (thuộc huyện Thái Khang tỉnh Hà Nam hiện nay). Ông là tướng lãnh, danh sĩ đời Đông Tấn, làm quan đến chức Trấn Tây Tướng Quân, được phong tước Hàm Đình Hầu, là con của Thái Thú Dự Chương Tạ Côn 謝鯤, và là anh họ chú bác của Thái Phó Tạ An 謝安.
Tạ Thượng lúc nhỏ đã tỏ ra tài trí siêu quần, tinh thông âm luật, giỏi ca múa vũ đạo, lại giỏi về thư pháp và rất giỏi về luận đàm; con người phong lưu và lại rất đẹp trai, có tiếng là “Trấn Tây yêu dã cố 镇西妖冶故” (chàng trai có nét đẹp ủy mị của Trấn Tây). Hưởng phụ ấm, bắt đầu từ chức Vương Hữu Cối Kê, Hoàng Môn Thị Lang Cấp Sự, Giang Hạ Tướng, Giang Châu Thứ Sử, Thượng Thư Bộc Xạ… Sau được tấn phong Trấn Tây Tướng Quân, Đô Đốc của 4 châu Dự, Ký, U, Tinh . Ông từng làm Thứ Sử Dự Châu 12 năm, nên được liệt vào hàng phương trấn của một vùng, lại có được Truyền quốc Ngọc tỷ, đồng thời cho chế tác một thạch khánh ở bến Thái Thạch dưới chân núi Ngưu Chử… Năm Vĩnh Hòa thứ 8 (352) Tạ Thượng liên kết với Dao Tương là thủ lĩnh của bộ tộc Khương tiến quân bắc phạt nhà tiền Tần, bị Đông Hải Vương Phù Hùng và Bình Xương Vương Phù Thanh đánh cho đại bại; Nhưng sau đó ông lại phái bộ tướng là Vương Hiệp đánh bại tướng của tiền Tần là Dương Quần, thu phục lại đất Hứa Xương. Thăng Bình nguyên niên (357) Ta Thượng tạ thế khi được 50 tuổi. Triều đình truy phong là Tán Kỵ Thường Thị, Vệ Tướng Quân, Khai Phủ Nghi đồng Tam Ty; Thụy hiệu là Giản.
Tương truyền khi ông là Trấn Tây Tướng Quân trấn thủ đất Thọ Xương, đã từng ngồi trên giường Hồ, mặc áo tử la nhu, ôm đàn tỳ bà gảy bài “ĐẠI ĐẠO KHÚC 大道曲”, người qua đường đều đến nghe và tán thưởng, nhưng lại không biết ông là ông tướng trấn thủ của nơi nầy. Bài ca đó như sau :
大道曲 ĐẠI ĐẠO KHÚC
青陽二三月, Thanh dương nhị tam nguyệt,
柳青桃復紅。 Liễn thanh đào phục hồng.
車馬不相識, Xa mã bất tương thức,
音落黃埃中。 Âm lạc hoàng ai trung !
謝尚 Tạ Thượng
* Chú thích :
– THANH DƯƠNG 青陽 : Màu xanh và ánh sáng mặt trời, đây là khí tiết của mùa xuân, nên Thanh Dương là “Mùa xuân”.
– PHỤC 復 : là Lại, là Trở lại…
– ÂM 音 : là Âm thanh; ở đây chỉ tiếng ồn ào huyên náo.
– HOÀNG AI 黃埃 : HOÀNG là màu vàng; AI là Trần Ai là Cát bụi; Nên HOÀNG AI là Cát bụi màu vàng ố ở bên đường.
* Nghĩa bài thơ :
KHÚC ĐÀN VỀ CON ĐƯỜNG LỚN
Vào tháng hai, tháng ba của mùa xuân tươi đẹp nầy; dương liễu thì xanh om và hoa đào thì lại nở hồng khắp lối. Xe ngựa và người đi đường qua lại tấp nập nhưng đều không quen biết nhau; Tiếng huyên náo ồn ào rồi cuối cùng cũng rơi rớt chôn vùi vào đất bụi vàng bên đường mà thôi !
Hai câu đầu tả cảnh mùa xuân tươi đẹp với sức sống đang lên của cỏ cây hoa lá. Dương liễu xanh tươi và hoa đào nở hồng muôn lối, với khí thế của cuộc sống đang bồng bột vươn lên một cách mạnh mẽ yêu đời. Nhưng…
Hai câu sau thì lại chuyển sang ưu thời mẫn thế : Tiếng xe ngựa ồn ào của người qua kẻ lại trên đường cái rất náo nhiệt xôn xao, nhưng mọi người đều chạy theo cuộc sống tất bật của riêng mình mà không ai quen biết với ai cả, rồi những cái ồn ào, xô bồ xô bộn đó cũng sẽ qua đi một cách tự nhiên và âm thầm như đều bị chôn vùi dưới lớp cát bụi bên đường cả vậy !
* Diễn Nôm :
ĐẠI ĐẠO KHÚC
Xuân hồng tháng hai ba,
Liễu xanh đào nở hoa.
Ngựa xe đều xa lạ,
Tiếng rơi trong bụi nhòa !
Lục bát :
Tháng hai, ba nắng xuân tươi,
Liễu xanh lả lướt, đào cười gió xuân.
Ngựa xe đều chẳng quen thân,
Âm thanh rơi rụng bụi trần vùi chôn !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức