BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH của PHẠM TIẾN DUẬT
Phạm Tiến Duật, sinh ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ . Cha ông là nhà giáo dạy chữ Hán và tiếng Pháp còn mẹ ông làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964 nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ (phóng viên). Trong 14 năm tại ngũ, ông đã có 8 năm gắn bó với Trường Sơn với Đoàn 559. Cũng chính trong thời gian này, Phạm Tiến Duật đã sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng, ông từng bộc bạch: Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết được chút gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng ở Trường Sơn. Năm 1970, sau khi đoạt giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà Văn Việt Nam.
Phạm Tiến Duật
Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam. Ông sống ở Hà Nội là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là người dẫn chương trình của chương trình Vui – Khỏe – Có ích trên kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam những năm đầu lên sóng.
Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001 và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.
Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8h50, ông mất vì căn bệnh ung thư phổi.
Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kì ông tham gia quân ngũ. Ông chủ yếu viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch”, ngang tàng rất lính nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là Trường Sơn đông, Trường Sơn tây.
Những tập thơ chính:
- Gửi em cô bộ đội lái xe (thơ, 1968) – ra đời khi cuộc kháng chiến Mĩ đang xảy ra vô cùng ác liệt.
- Vầng trăng – Quầng lửa (thơ, 1970) – nổi tiếng nhất với tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
- Ở hai đầu núi (thơ, 1981).
- Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983).
- Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994).
- Nhóm lửa (thơ, 1996).
- Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997).
- Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày 17 tháng 11 năm 2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng) – tập thơ và trường ca này đã được trao Giải thưởng văn học 2007 của Trung tâm Văn hoá Doanh nhân.
- Vừa làm vừa nghĩ (tập tiểu luận, 2003)
Ông được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mĩ” và “ngọn lửa đèn” của một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thời chống Mĩ từng được đánh giá là “có sức mạnh của cả một sư đoàn”.
Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một tuyến phố ở quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, từ ngã ba giao cắt đường tiếp nối phố Chế Lan Viên tại toà OCT1 Khu đô thị Resco đến ngã ba giao cắt đường tiếp nối phố Chế Lan Viên (đối diện Trường THCS Cổ Nhuế 2, thuộc tổ dân phố Viên 1, phường Cổ Nhuế 2).
Sau đây bài thơ của Ông, kèm theo bản dịch tiếng Pháp của Thân Trong Sơn:
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
( Nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc )
POÈME DU PELOTON SANS VITRES
Pas de vitres – non que la voiture en manquait,
Mais les bombes ont tout brisé sans arrêt.
Au volant, serein, je prends ma place,
Regard droit, vers le ciel, la terre, l’espace.
Le vent me frotte les yeux en passant,
La route s’élance droit dans mon sang.
L’étoile scintille, un oiseau soudain
Fonce dans la cabine sans frein.
Pas de vitres ? Alors bonjour la poussière,
Mes cheveux blanchis comme un vieux grand-père.
Pas besoin de se laver, j’allume un mégot,
Nos visages sales rient bien haut.
Pas de vitres ? Alors, la pluie ruisselle,
Elle tombe, elle frappe comme une dentelle.
Pas de rechange, cent kilomètres encore,
Quand le vent revient, tout sèche dehors.
Les camions, de la pluie et du feu,
Se rejoignent ici, unis, valeureux.
Sur la route, entre frères d’armes,
On se salue, vitre brisée, sans larmes.
Un feu Hoàng Cầm dressé sous le ciel,
Nos bols, nos baguettes : un foyer fraternel.
Les hamacs bercés sur le bord du chemin,
On repart, on repart sous le ciel sans fin.
Pas de vitres, ni phares, ni carrosserie,
Le camion cabossé, blessé mais en vie.
Il roule encore pour le Sud espéré,
Car un cœur bat toujours à l’intérieur, obstiné.
( Poème mis en musique par Hoàng Hiệp )
Thân Trong Sơn dịch