Những phận đời trong tập truyện “Vùng biển lặng” của Văn Quốc Thanh
Hôm nay, một ngày thảnh thơi. Tôi quyết định chuyện trò cùng những người bạn mới. Và “Vùng biển lặng” của Văn Quốc Thanh đã vẫy gọi tôi. Rút quyển sách ra khỏi kệ, ngắm nhìn, tôi thấy ấn tượng với minh họạ trên bìa. Hai gương mặt gần kề nhau, nhưng lại toát lên vẻ cách xa, đau đáu cùng những ngôi nhà nhỏ, những cánh buồm nhỏ thấp thoáng giữa vùng trời mênh mông, biển cả. Tôi lật từng trang sách, chậm rãi.
“Mảnh đời”, “Vùng biển lặng”, “Chuyến đò muộn”, “Đứa bé trước phòng xử án” … mỗi câu chuyện là mỗi lát cắt trong cuộc sống, mỗi thân phận đời người nơi vùng đất phương Nam này. Hiện thực, ước mơ; khổ đau, hạnh phúc; sự sống, cái chết… được cài cắm đan xen nhau bằng bút pháp tả thực kết hợp lối trần thuật cổ điển. Văn phong bình dị, từ ngữ đậm chất Nam bộ, cách dẫn truyện nhẹ nhàng mà vẫn hấp dẫn được người đọc.
Ở Mảnh đời”, ta bắt gặp một để tài quen thuộc, những đứa trẻ bất hạnh bước ra từ những gia đình đổ nát. Khởi diễm cho số phận đau thương của chúng được bắt nguồn từ chính những người đã sinh ra chúng, Những kẻ háo thắng, cục tính và vô trách nhiệm. Những kẻ chỉ có dục tính chứ không hề có nhân tính ấy, đã đẩy những đứa con của mình ra “đống rác” với những “mớ bùng nhùng dơ bẩn” cùng “cái đói ran cả ruột”, để rồi cuộc đời của chúng có “trôi dạt về đâu?…” họ cũng chẳng bận lòng. Đó là những hình ảnh của đời thực, nó luôn tồn tại và diễn ra quanh ta. Nhưng, khi đọc “Mảnh đời”, những không gì mới lạ ấy lại lần nữa trở lại, khiến ta nhói lòng và uất giận.
Thương xót những đứa trẻ ấy bao nhiêu, ta càng thấy giận những kẻ được gọi là cha mẹ, nhưng lại không có lấy chút gì đáng được làm mẹ làm cha trong cuộc đời này. Những kẻ góp phần làm mất đi sự ổn định và phát triển của xã hội.
Với “Người khách lạ”, tôi đặc biệt thích câu chuyện này.
Tác giả với ý niệm rất rõ ràng, mà sao nghe như bất nhẫn, chua chát. Một cái gì đó trong ý thức hệ, dù đơn giản chỉ là việc
“treo tranh”. Một cái gì đó là bất công xã hội, dù nhẹ nhàng là
“Có một thời cầm cọ vẽ tranh châm biếm ở một tòa soạn báo nổi tiếng, tôi bị qui kết tội xiên xỏ về chân dung giống một ai đó trong giới lãnh đạo nên buộc thôi việc…”. Một cái gì đó là giá trị sống, cũng là số phận của nghệ thuật, con người “Dù tranh, tượng đẹp, nổi tiếng đến đâu mà ta đặt không đúng chỗ thì nó cũng trở thành những thứ vô hồn trong nghệ thuật”… cuộc sống là vậy, luôn diễn ra và không ngừng vận động theo cách nào đó. Và không phải mọi thứ đều được đặt đúng, được nhìn đúng với chân giá trị của nó. Gorki cho rằng: “Từ mối quan hệ, từ sự ăn khớp giữa kinh nghiệm của nhà văn với kinh nghiệm của người đọc, chân lý nghệ thuật được tiếp nhận…”, đúng vậy, việc tiếp nhận mỗi tác phẩm văn học ở mỗi người đọc là khác nhau. Vì nhiều yếu tố, và vì nhiều lý do, tính điển hình ở từng nhân vật cũng trở nên chênh và lệch ở cảm xúc và tư duy của mỗi người. Đúng với người này, nhưng lại không đúng với người khác. Ý nghĩa với người này, nhưng lại là vô nghĩa với người khác. Những mâu thuẫn đời sống, những đối nghịch tư tưởng, những bất đồng quan điểm nghệ thuật… luôn va đập, thách thức lẫn nhau. Và nhà văn, luôn không ngừng giải mã, luôn đi tìm chân lý, theo cách của họ.
Đọc “Ngậm ngùi dưới đáy mồ sâu!” để thấy cái lẽ được mất, hèn sang ở đời như mây nổi. “Huyệt mộ lúc này, giống như một địa đạo dẫn vào hầm bí mật ẩn sâu trong lòng đất…”, đó là ngôi nhà của chúng ta khi xong một kiếp người. Và không ai có thể biết khi nào thì quỹ thời gian của mình chấm hết.
Vô thường mà thuyết nhà Phật thường dùng để giảng giải cho chúng sinh là vậy. Vạn vật biến hoá, nói chi là thân giả tạm? ” …một tay chống xuống đáy hòm, một tay lần mò trong làn nước đen bẩn nhơn nhớt, sền sệt pha lẫn đất cát để dò từng chiếc xương người trong thế giới âm u nặng mùi tử khí…”, tôi đã một lần chứng kiến việc bóc mộ, đưa bà nội của tôi từ bên đất bạn Cam-pu-chia về lại quê nhà. Cái cảm giác ám ảnh đó theo tôi rất lâu. Nay, gặp lại trong “Ngậm ngùi dưới mộ sâu” của Văn Quốc Thanh, cái cảm giác ấy lại quay về, vẹn nguyên.
Khi hiện diện trên cõi đời này – chúng ta – ai cũng mong muốn những điều tốt đẹp. Những mong muốn rất con người ấy, rất chính đáng ấy sẽ tuyệt vời biết bao nếu nó được dẫn dắt bởi những suy nghĩ và những việc làm lương thiện, chính trực. Và ngược lại. Bởi, có ai “lột da sống đời” bao giờ? Chết, không mang theo được gì, nhưng có để lại. Chắc chắn là thế, chỉ là không biết chúng ta để lại cái gì trên cuộc đời này? Nếu chúng ta không ý thức về nó ngay từ đầu. Ở đây, ông “ba vợ” chắc đang hạnh phúc vì tấm lòng thơm thảo của đứa con rể “con chun vào đáy mộ sâu trong lòng đất, con nâng niu kỳ rửa từng vết bùn đen bám vào xương cốt của Ba…” hẳn, thứ mà “ba vợ” để lại trước khi rời cõi thế là một nhân cách tốt, với “nụ cười đôn hậu”, với giọng nói “ôn tồn”, với “ánh mắt bao dung, trìu mến”. Và một tình yêu thương vô bờ dành cho con cháu “đi ăn phở với Ba”, rồi “Ba không quên mua thêm phần bánh bao, ghé thăm đứa cháu ngoại đầu lòng”, “Ba luôn quan tâm theo dõi từng bước đi của đàn con cháu”
… Nên giờ đây, thứ mà ông ấy đang được nhận về chính là sự chăm lo, yêu kính và thương nhớ của những người ở lại. Cuộc sống giống như một chiếc bình, khi chúng ta cho vào chiếc bình những gì, chiếc bình sẽ rót tặng lại ta những thứ ấy. Đó là qui luật. Và đó cũng là đạo lý.
Nhà văn chọn phối hợp kết cấu tâm lý và lắp ghép sự tình làm điều kiện khai thác nhân vật. Anh có cách cuộn tròn và kết rất chặt cho các vấn đề được đặt ra. Tiếc rằng, trong xây dựng hình tượng văn học, phần miêu tả lồng ghép chưa được chú ý nhiều. Vì vậy mà chất liệu đời sống thiếu phần phong phú, diễn biến tâm lý nhân vật chưa thực sự đỉnh điểm. Truyện do đó, thiếu đi phần kịch tính.
“Ngôi mộ không hài cốt”, “Đảo xa tiếng sóng thì thầm” những trang ký văn học cảm động, chân thật, chất chứa nỗi buồn chiến tranh. Những hy sinh, mất mát; những linh thiêng, tự hào dân tộc. Và cả những ước vọng tươi đẹp của thời bình: hạnh phúc, phát triển và dựng xây trong “Cù lao An Bình đất lành chim đậu”. Rồi “Ngậm ngùi dưới đáy mồ sâu” mang giá trị nhân sinh cao đẹp, những bài học quý… được tác giả liên mạch, kết thành trong hồi ức dĩ vãng sống động và trí tưởng tượng phong phú.
Điểm mạnh trong tập truyện và ký này phải kể đến là nghệ thuật trần thuật của tác giả. Các nhân vật được “giao nhiệm vụ” hết sức rõ ràng, và vì thế họ đều thể hiện vai trò của mình một cách thuyết phục trong tiến trình phát triển cốt truyện.
Huỳnh Như Phương có viết: “Như người thợ xây cất ngôi nhà, nhà văn cũng sắp xếp tòa kiến trúc ngôn ngữ của mình theo một trật tự, một hệ thống mà ông ta cho là hợp lý nhất, có hiệu quả nghệ thuật nhất…”
khi tiếp cận tác phẩm của Văn Quốc Thanh, ta không nên hời hợt mà cần lắng đọng, chậm rãi đi vào nội tại của nó. Để thấy được những bản sắc ấn tượng, những xúc cảm thẩm mĩ hòa trộn. Các câu chuyện vì thế mà tự nhiên, gần gũi, dễ dàng chạm vào cõi sâu tâm hồn người đọc. Đồng thời, đạt được những hiệu quả nghệ thuật nhất định.
Tôi nghĩ, khi cầm bút để tạo ra “Vùng biển lặng” giữa cuộc sống không hề bình lặng này. Hẳn, nhà văn đã trải qua quá trình quan sát, giằng xé nội tâm, trăn trở và ủ chín. Để có thể chuyển hóa cái nhìn, suy nghĩ, tình cảm vào các hình tượng văn học… một cách chân thật, sinh động và giàu cảm xúc. Để rồi từ đó, những lát cắt của đời sống văn hóa – xã hội, con người nơi vùng châu thổ đã được hiện lên, rõ nét, sống động và đa chiều. Vì vậy, đối với quyển sách này, ngoài tác dụng giải trí mà nghệ thuật mang lại, người đọc sẽ đồng cảm sâu sắc cùng nỗi niềm cảm thương, day dứt mà tác giả dành cho những phận đời khốn khó, bất hạnh. Để rồi, trầm mặc, suy ngẫm cùng những triết lý sâu xa ẩn tàng trong nó.
Bảo Bình