BÀ CỐ TÔI

Ngày đăng: 16/04/2023 11:21:01 Chiều/ ý kiến phản hồi (1)

Ông cố ngoại tôi, thầy Cả Luận (Lâm Văn Luận, 1901-1975), là một đông y sĩ nổi tiếng ở Thủ Dầu Một từ năm 1930. Ông là cháu nội và là truyền nhân của cụ Lâm Trọng Trung (1845-1929) vốn là một thầy thuốc nổi tiếng ở đất Thủ Dầu Một. Sanh thời thầy Cả Luận được tiếng mát tay, hiền từ, nhơn đức vì hay giúp người sa cơ và bỏ nhiều công sức trong việc xây dựng các ngôi chùa trong vùng. Nhờ vậy, ông không bị mất nhà qua các cuộc bể dâu.
Lúc nhỏ ông được học chữ Hán và theo học École de Thủ Dầu Một, rồi học nghề thuốc với chính ông nội mình. Cha mất sớm, ông sống cùng mẹ và chị trong căn nhà nhỏ trên đất của ông nội. Hằng ngày nhìn bác dâu và các anh chị họ sống sung túc trong nhà ông nội, ông nói với mẹ mình: “Sau này con sẽ sắm cho mẹ tất cả.”
Câu chuyện này tôi được nghe từ nhỏ:
Có một thân chủ thưa với thầy Lâm Trọng Trung: “Thưa thầy, tôi nói việc này xin thầy đừng giận.” Lấy ngón tay chỉ vào cậu học trò hai mươi tuổi đứng hầu sau lưng ông Trung, người đó nói tiếp: “Thưa thầy, mấy bữa thầy đi vắng, thầy này bắt mạch hốt thuốc cho tôi hay quá. Nay xin thầy cho thầy này tiếp tục bắt mạch cho tôi…”
Người học trò đó chính là ông cố của tôi, sau này là thầy Cả Luận. Năm hai mươi tuổi, ông cưới vợ là cô Trương Thị Mót. Bà cố ngoại tôi sanh năm Canh Tý (1900), mất ngày 01-3 Tân Dậu (05-4-1981). Bấy giờ ông cố tôi được ông nội mình (cũng là thầy) cho phép ra hành nghề riêng. Chỉ tám năm sau, khi chưa được ba mươi tuổi, ông trở thành một thầy thuốc nổi tiếng và xây dựng được cơ ngơi cho riêng mình. Dù người xưa thường nói trước ba mươi tuổi không được xây nhà lớn, nhưng ông nói xây nhà là xây cho ông nội và mẹ ông.
Tôi viết hồi ức này, ghi lại mấy kỷ niệm với bà cố ngoại.
oOo

Chiều nay về nhà Ba Má, mở cửa cổng, dắt xe vô, bất chợt như thấy hình ảnh của bà Cố đứng sau bàn ông Thiên, như ngày nào, một ngày xa xưa đó, cũng trong một buổi chiều tắt nắng, thanh bình….
Ký ức tuôn trào, đóng cửa, quay về nhà và …viết.
Năm tuổi, cha đi cải tạo, má dẫn tôi và một bầy em lít nhít về ở với Cố và ông bà ngoại. Lúc đó cố đã gần  tám mươi.

Trong ký ức của tôi, cố là một bà già rất đẹp lão, đi đứng nghiêm trang, từ tốn và không bị còng lưng như bà Hai Quạt hàng xóm. Tóc Cố bạc trắng, bới củ tỏi sau gáy, tuy bạc trắng nhưng vẫn còn rắc “muối tiêu” chứ không trắng bạch kim như bà ngoại tôi sau này. Tôi còn nhớ hình ảnh mỗi chiều Cố tắm gội sạch sẽ, tự tay giặt bộ đồ của mình chứ không để cho ai giặt hết (và tôi cũng bắt chước Cố vậy, từ hồi tôi 7-8 tuổi), tắm gội  rồi, Cố thay bộ bà ba trắng, ra giếng mội nhờ múc một bình nước cúng. Rồi Cố thắp nhang trên bàn ông Thiên ngoài sân, vái 4 phương, lầm rầm khấn gì đó thiệt là lâu. Tôi nhiều lần tới sát bên mà chẳng nghe được gì hết nên có lần tôi hỏi: “Cố ơi, Cố vái gì vậy Cố?”. Cố cười trả lời: “Cố vái cho quốc thái dân an, gia đạo bình yên, mạnh giỏi, Cố vái cho tụi bây mau lớn…”

Có lần đang đêm Cố cũng ra sân để vái ông Thiên, đó là lần ông Út của tôi, tức là con rể của Cố, người đầu tiên của gia đình tôi được ra khỏi trại cải tạo, về nhà lúc đã lên đèn. Tôi còn nhớ ông Út đứng chờ Cố khấn xong  rồi nói: “Má ơi, con phải trình diện chánh quyền địa phương liền bây giờ”. Và má tôi  xách cây đèn bão đưa ông đi lên công an xã, có tôi đi theo.

Bây giờ, mỗi khi nhìn cái bàn thiên tôi lại như thấy hình ảnh của Cố đang vái bốn phương tám hướng, bận bộ bà ba trắng. Vậy mà có lúc tôi định phá bỏ cái bàn ông Thiên  lịch sử đó. Đó là lúc tôi 17-18 tuổi, suy nghĩ nông cạn và “vô thần”,  tôi nghĩ rằng Cố tôi mất rồi, bà ngoại tôi sang Mỹ với dì tôi và đã theo đạo Công giáo, Ba má tôi cũng là người công giáo, tôi thì không theo tôn giáo nào, đây cũng là điều dân chủ trong gia đình bên ngoại tôi, ai thích tôn giáo nào cũng được, miễn giữ đạo lý làm người, nhưng tôi biết Ba Má tôi cũng có lúc đau buồn vì đã không hướng dẫn được con mình  giữ đạo, tôi đã làm gương xấu cho hai đứa em kế tôi. Ông ngoại tôi  không phải là Phật tử như ông bà Cố tôi nhưng cũng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi tư tưởng Phật gia và ông có học chữ Hán, Tam Tự kinh tức Nho học.

Cái bàn Thiên để làm gì nữa? Bây giờ đâu còn ai đốt nhang  đâu.

Nghĩ là làm, tôi đổ nước cho mềm đất rồi lắc cái bàn Thiên của Cố, không khó lắm để một thanh niên mười bảy như tôi nhổ được nó lên và bỏ vô góc vườn. Mấy hôm sau Má tôi mới biết, bà nói rằng không được phá đi cái gì nữa, cái nhà này đã bị phá rất nhiều từ ngày đó rồi, bởi phải làm cho nhà mình xấu đi chứ không người ta sẽ nói là “tư sản”…

Tới chiều tôi đi học về thì cái bàn Thiên đã được dựng lại chỗ cũ, tráng xi măng xung quanh và  thêm cái đường đi bằng gạch Tàu nữa, y như hồi Cố còn sống….

Rất lâu sau này tôi mới hiểu rằng cái bàn Thiên đó có một giá trị vô cùng to lớn với tôi, giá trị lịch sử và chứng nhân lịch sử của gia đình tôi. Vậy mà xém chút nữa tôi đã phá bỏ nó vì sự ngu dốt và ngông cuồng của tuổi trẻ.

Đặc biệt, tôi nhớ Cố tôi không mất một cái răng nào, dù cả đời Cố không dùng kem đánh răng, chỉ chà răng bằng vỏ trái cau tươi và súc miệng với nước muối. Má tôi hay nói với tụi tui rằng nếu con không chịu đánh răng thì con sẽ rụng hết răng trước bà Cố cho mà coi, tôi còn ráng gân cổ cãi rằng con đâu có thấy bà Cố đánh răng hồi nào đâu. Rồi còn đòi chà răng bằng vỏ cau và súc miệng nước muối như Cố. Cố cười rồi cho tôi mấy miếng cau, còn dạy tôi “đánh răng” nữa. Được đâu hai ba lần gì đó là tôi chán, vì nó cực hơn đánh răng với kem nhiều.

Nhà tôi hồi đó  có mấy cây kem đánh răng hiệu Hynos với hình ông Chà và Ma ní đen thui, cười đưa 2 hàm răng trắng bóng, mà Má tôi hay chọc nói giống tôi, đen thùi lùi. Còn tôi thì thấy giống y chang  anh Hynos con bà Mười Bốn ở xóm dưới với thằng chú tiểu lai Mỹ đen tu trong chùa  Thiện Hòa trên dốc.  Sau này thỉnh thoảng tôi còn lượm được mấy vỏ hộp kem như vậy ở trong kho nhà tôi.

Nói chuyện “lượm được” mới nhớ, có lần tôi đang chơi với mấy đứa ngoài sân thì Má kêu vô hỏi con lượm được tiền phải không(?). Thì ra bà Cố nói ngồi trong nhà nhìn ra thấy tôi lượm được tờ năm trăm của ông sáu Quang  làm rớt. Tờ năm trăm mà Cố nói đó là tờ giấy 1 đồng tiền mới, tức tiền cách mạng, tại Cố không quen nói tiền mới nên còn dùng “tiền ngụy”, mấy bà già trong xóm cũng vậy. Khi mới biết đọc, tôi cũng có hỏi má là tại sao ghi một đồng mà nói năm trăm, còn năm mươi xu lại kêu là hai trăm rưỡi…. Má mới giải thích cho tôi hiểu.

Tôi còn nhớ thêm 2 lần đổi tiền sau đó nữa. Một lần lúc tôi  học lớp 9, buổi sáng tới trường thì thông báo được nghỉ học vì “Đổi tiền”. Lần đó, ba chục của tôi đổi được 3 đồng. Còn lần trước đó, lúc tôi học lớp ba, người ta mượn nhà tôi làm chỗ đổi tiền, tôi còn nhớ tôi khóc quá trời khi biết rằng số tiền mà ông ngoại tôi có, để nuôi một đại gia đình  người già, đàn bà và con nít , chỉ được người ta cho đổi chưa tới một nửa. Có cô cán bộ trong đoàn đổi tiền thương tôi quá, dẫn tôi ra ngoài sau nhà nói nhỏ: “Con nín đi, để cô nói mấy người ít tiền nhận đổi dùm cho ông ngoại con, mà con phải nín nghe chưa”. Tôi còn mang ơn cô tới bây giờ, không biết bây giờ cô ở đâu, rồi cô có bị liên lụy gì hay không? Vì đã bày mưu giúp gia đình tôi, tôi tin rằng cô giúp gia đình tôi vì tình người chớ không có vụ lợi gì hết.

Trở lại chuyện lượm tiền, tôi nói dạ đâu có lượm được gì đâu, tiền “ngụy” của con chơi mà, và đưa ra mấy tờ tiền cũ có màu giống tờ 1 đồng tiền mới, Má tôi cũng nói tôi mới có 6 tuổi, không biết nói dối và cũng chưa biết xài tiền, có mời ông Sáu qua, ông cũng nói không mất tiền, mà Cố nhứt định không chịu, cứ nói tôi còn nhỏ mà ham tiền,  nói láo, còn Má tôi thì binh con, làm Má con tôi tức mình khóc quá chừng.

Mọi người nói Cố tôi già sinh tật, nhưng Cố hay dạy chúng tôi nhiều câu chuyện về đạo lý ở đời. Trong các các câu chuyện của Cố, kết thúc bao giờ cũng có hậu, ở hiền gặp lành, làm ác gặp ác, cái ác bao giờ cũng bị trừng trị, nếu ác vừa vừa, mọi người tha thứ thì lương tâm cũng giày vò mà chết, hoặc hóa điên. Còn người tốt bao giờ cũng được tưởng thưởng xứng đáng. Đó là triết lý và mong ước giản đơn của những bà già chân quê bình dị như Cố tôi. Nhưng tôi cũng tin vào điều đó, những điều mà Cố đã dạy tôi lúc còn ấu thơ.

Cố cũng dạy tôi phải biết khiêm tốn, tiết kiệm, không được coi thường người nghèo khó. Ăn cơm phải ăn cho hết, không được “bỏ mứa” và rơi rớt ra ngoài, mỗi hột cơm rơi phí sau này đi xuống âm phủ phải ăn một con dòi. Phải nhớ người nghèo không có cơm ăn. Cố dạy ăn uống phải chừng mực, không được “ngồn ngoàn” người ta chê cười. Tôi vốn “xấu tiếng đói”, đi chơi chiều về là kêu “đói quá đói quá”, rồi được Má xúc cho tô cơm nhỏ, ăn trước cả nhà, ăn với đường tán là món ưa thích của tôi hồi nhỏ, cái tô bằng chừng chén rưỡi, màu xanh dương, có hình bát tiên quá hải, sau này em tôi làm bể mất rồi, tôi ăn thấy ngon gì đâu vì đang đói mà. Vừa ăn vừa khen “ngon quá ngon quá”. Vậy mà Cố cũng rầy. Cố nói làm gì như chết đói, ai thấy cười nhà mình. Ông ngoại tôi gạt ngang: “Nó con nít mà Má”, làm Cố mất hứng, tội nghiệp Cố.

Em gái tôi 4 tuổi còn nhỏng nhẻo đòi má ẳm, Cố cũng rầy, nói có em rồi, con người ta bây lớn phụ buôn bán được rồi đó, bây còn ẳm. Má tôi nói tại nó bự xác chứ có 4 tuổi à nội. Cố nói 5 chứ 4 gì. Tại Cố tính tuổi ta, luôn tuổi mụ trong bụng mẹ. Cố nói tôi tôi 7 tuổi, tôi nói con mới 6 tuổi à, chưa học lớp 1 nữa mà.

Cố muốn ăn chay, nhưng vì sợ phiền má tôi nấu nướng cho cả nhà, lại thêm mấy thợ thầy làm ruộng vườn nữa nên Cố ăn mặn.

Lâu lâu Cố nhờ tôi chạy xuống nhà ông Út Râu để mua bánh tráng cho Cố. Một trăm bánh tráng, năm trăm (tức là một đồng tiền mới), hai trăm một ngàn, tôi cứ lộn tùng phèo.

Có lần Cố còn cho tiền tôi và các bạn ăn bánh nữa, lần đó có một bác phơi lúa trong sân nhà tôi chọc thằng Bình lai Mỹ “sao không về Mỹ mậy” làm nó khóc. Cố Kêu bác lại rầy rồi dỗ nó “Con là con ruột của con ba Nữa mà, bà biết mà” (thật ra nó là con nuôi Bà Ba lượm ngoài đường), rồi bà đưa tiền kêu tôi chạy đi mua bánh về cho tụi nó ăn, đó là lần duy nhất bà cho tôi tiền và cho phép ăn bánh trước giờ cơm.

Có lần trong lúc gây lộn tôi có ý xúc phạm một bạn hàng xóm, con của ông bán bánh mì ngoài bến xe, Cố nghe được kêu tôi vào dạy, bắt tôi xin lỗi bạn. Cố chỉ lên bàn thờ ông Sơ có cặp liễn rồi đọc câu gì đó, sau này lớn tôi mới biết đó  là câu:
Xử thế vật kiêu nhân
Tu thân nghi thiết kỷ.

Tức là:
Trong xử thế không được kiêu ngạo với người, việc tu thân phải nghiêm khắc với chính mình.
Còn trên bức tranh thủy mặc trên bàn thờ có câu:

Chánh tâm vi tiên, xuất như thị nhập như thị
Trung lập bất ỷ, ngôn ư tư hành ư tư.

Tức là:
Chánh tâm làm đầu, vào như vậy, ra cũng như vậy/ Luôn giữ ở mức trung, không cậy dựa, nói như thế làm như thế.(nói sao làm vậy)

Vậy mà xưa tôi nào có hiểu gì đâu, bị rầy hoài tôi tức Cố lắm, nhiều lúc Cố quay đi tôi còn “thủ võ” với Cố nữa.
Năm tôi học lớp 4 thì Cố tôi qua đời, tôi nhớ những lần đó mà ngồi khóc quá trời, còn nhớ bà ba tiệm may Huê Mỹ là bạn của ngoại nói: “Tội nghiệp hông, con thương Cố lắm sao?”

Cố tôi ít bệnh lắm, mà mỗi lúc bệnh không chịu uống thuốc tây (vì sợ nóng, sợ uống thuốc tiêu nó tiêu luôn cái bao tử).

Cố tự đi  hái  lá cây điều chế thuốc, hoặc nhờ mua thuốc bắc. Cố cũng biết ít nghề thuốc vì chồng Cố (tức ông Cố tôi) là đông y sĩ nổi tiếng hồi xưa (ông Cả Luận). Dù má tôi là dược sĩ, ông ngoại tôi có nhà thuốc Tây lớn thứ nhì thị xã hồi đó( trước giải phóng).

Hồi nhỏ tôi còn nhớ Cố hay biểu tôi  đi hái lá để Cố làm thuốc, trong đó có cây Bỉ Bái (trong thuốc dưỡng thai), giờ không thấy cây đó nữa mà tìm trong sách cũng không có luôn. Không biết nó còn tên gì khác hay không?

Hồi đó, Cố tôi đã nghỉ làm thuốc rồi, từ ngày ông Cố tôi  mất tháng 4 năm 75, trước 30 tháng 4 có mấy ngày.
Cố chỉ làm thuốc tễ khi có ai đó trong bà con dòng họ yêu cầu giúp đỡ, người giúp Cố làm thuốc, lăn bàn tán thuốc, giã thuốc, vo viên thuốc là anh Sấm đệ tử của cậu Tư tôi hay anh Hoàng, anh Bảo con dì Hai Hiệp (kêu bà bằng Cố Bảy) .

Tôi lại nhớ lần Cậu Tư tôi bị xe đụng gãy xương đùi nằm trong bệnh viện, chiều tối anh Sấm chạy về nói ngày mai chuyển đi nhà thương Chợ Rẫy, anh Khải (tức Cậu Tư tôi) nói bác kiếm cho ảnh  mấy viên Glifanan( giảm đau) với thuốc ngủ, nhà thương không có thuốc gì hết. (Trời ơi, gãy xương đùi mà không có thuốc giảm đau, không hiểu làm sao chịu cho nổi?).

Cố tôi lại đốt nhang hết ba bàn thờ ông bà và bàn ông Thiên ngoài trời, vô nhà Cố còn khấn: “Lạy trời lạy Phật cho con chịu thay cho cháu của con.”

Cái lần ông ngoại tôi bị điện giựt té bất tỉnh, Cố cũng thất thần và kêu lên  như vậy. Mới hay nước mắt chảy xuôi, cha mẹ ông bà lúc nào cũng nghĩ cho con cháu trước, ba má tôi cũng vậy thôi, bao miếng ngon dành hết cho con cái. Có con rồi mới biết lòng mẹ cha.

Sinh thành nghĩa trọng càn khôn đại
Cúc dục ân cao nhật nguyệt trường
(Nghĩa sinh thành lớn tựa trời đất, Ơn dưỡng dục sánh tháng năm dài)
……

Cố tôi bệnh bao lâu thì mất, tôi cũng không nhớ rõ nữa, chỉ nhớ rằng có bà Út tôi từ Sài Gòn về để chăm sóc Cố. Mấy ngày cuối cùng, Cố yếu lắm , không còn nói được nữa, chỉ nhìn mọi người và nắm tay nhè nhẹ như muốn nhắn gởi  tâm tình cho người ở lại.

Hôm Cố đi, ông ngoại tôi đang ở ngoài ruộng trông coi bạn hàng hái rau. Hơn 4 giờ sáng, ông vô tới sau bếp thì có con chim cú ở đâu bay tới trên cành mận ngay trên đầu của ông, nó kêu đúng ba tiếng lớn rồi bay đi ngay. Dù trước nay không tin vô mấy chuyện này, cho là sự tình cờ nhưng ông nói ông nghe lạnh sống lưng, hối hả bước lên nhà trên, vừa kịp lúc bà Út tôi bước ra thông báo “Má đi rồi anh ơi”.

Trời thu mây hợp lại tan
Ngày xuân hoa nở hoa tàn mấy lăm
Trãi trong tám chín mươi năm
Bóng câu qua cửa dễ cầm mãi ru.

Thịt xương gởi đám diêm phù… (Bích câu kỳ ngộ)
Nhân sinh nhất thế trường vi khách (Thơ Đường).
Người đi để lại cho con cháu niềm thương nhớ khôn nguôi.

( mùng 4 Tết Tân mão)

NGUYỄN NHƯ THẠCH

Có 1 bình luận về BÀ CỐ TÔI

  1. Bacsi Suu nói:

    Bài viết đầy ắp những kỉ niệm. Chính những kỉ niệm xưa là chất liệu nuôi dưỡng tâm hồn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác