ĐỨC HY SINH (The Sacrifice)

Ngày đăng: 3/09/2017 12:15:56 Sáng/ ý kiến phản hồi (4)

image1                                    Phong cảnh núi rừng của Lebanon

Một ngày cuối tháng sáu, khi người ta kéo nhau lên những vùng đồi núi để trốn cái nóng gay gắt ở những vùng doc theo bờ biển; như thường lệ, tôi thả bộ đến ngôi đền để gặp Salma. Lúc đi, tôi có mang theo một tập thơ viết bằng tiếng Andalusia, một thổ ngữ miền Nam Tây-ban-nha mà tôi rất thích.

Khi đến ngôi đền trời đã xế chiều. Tôi ngồi bên góc thềm, đưa mắt nhìn mấy con đường chạy quanh co giữa những hàng cây chanh và cây dương liễu. Thỉnh thỏang tôi nhìn lướt qua mấy câu thơ, ngâm nga mấy tiếng, rót đầy hoan lạc vào lòng, chúng gợi lại ký ức một thời vàng son của các vua chúa, các nhà thơ và hiệp sĩ đã phải từ bỏ Granada, Gordova và Seville* ra đi, để lại những đền đài cung điện với nhiều tiếc nuối.

Ngồi đợi một lúc, ngước lên nhìn tôi thấy Salma xuất hiện; thân hình mảnh khảnh, nàng đang tiến về phía ngôi đền. Nương dưới bóng cây dù để tránh nắng, nàng đi về phía tôi, dáng đi có vẻ nặng nề như thử đôi vai nàng chất đầy gánh nặng phiền muộn, gom lại của cả thế gian. Đến nơi, nàng ngồi sát bên tôi. Nhìn vào đôi mắt nàng, tôi nhận ra như có điều gì đó khác thường và tôi nóng lòng muốn biết.

image2                                    ngôi nhà thờ Thiên chúa giáo tại Lebanon

Như đọc được ý nghĩ của tôi, không để cho sự im lặng kéo dài thêm nữa, Salma bèn đặt tay lên đầu tôi và nói, “Anh yêu! Hãy xích lại gần em thêm chút nữa! Hãy giúp em làm dịu cơn khát trong em vì giờ phút chia tay đang đến gần với chúng ta; và có lẽ chúng mình sẽ mãi xa nhau!”

Tôi hoảng sợ, liền hỏi nàng, “Salma em, thế nghĩa là gì? Phải chăng có một quyền lực thần bí nào đó sẽ chia cắt chúng ta?”

Nàng trả lời, “Một sức mạnh vô hình đã chia cách chúng ta ngày hôm qua, và nó sẽ tiếp tục hành động ở ngày mai. Một sức mạnh vô ngôn, lợi dụng luật pháp để biến con người thành kẻ nô lệ hòng dựng nên những rào cản khó có thể vượt qua được, nó cố ngăn cách anh và em. Một thế lực đã tạo ra những kẻ hiểm độc khiến chúng trở thành những kẻ canh giữ linh hồn con người và nó đã hạ lệnh cho em thoát ra khỏi ngôi nhà xây bằng xương khô và sọ người..”

“Phải chăng chồng em đã biết những cuộc gặp gỡ của chúng mình tại đây? Em có sợ chồng em giận dữ và báo thù?”, tôi hỏi.

Nàng trả lời, “Không đâu anh yêu! Chồng em chẳng thiết gì đến em, ông ta cũng chẳng cần biết em sống chết ra sao bởi ông ta bận bịu với những cô gái nghèo khó, khổ sở, và chính sự nghèo khó ấy đã xô đẩy họ làm kẻ nô lệ, bán thân nuôi miệng, máu và nước mắt của họ hòa lẫn nhau.”

Tôi tiếp tục gạn hỏi, “Vậy điều gì ngăn cản em đến ngôi đền nầy ngồi bên anh, kính cẩn trước đấng Thiêng Liêng? Có phải lòng em đòi chúng ta phải ly biệt?”

Chan hòa nước mắt, nàng trả lời, “Không đâu anh yêu! Lẽ nào hồn em lại đòi chia ly vì anh là một phần của em mà. Mắt em có bao giờ thấy chán khi nhìn anh vì anh là ánh sáng để cho mắt em nhìn thấy anh. Nhưng nếu định mệnh bắt em phải bước đi dưới sức nặng của xích xiềng trên cõi đời nầy thì em nỡ lòng nào để số phận anh hẩm hiu giống em?”

Nàng tiếp, “Em không thể nói ra hết mọi điều; bởi lưỡi em đã tê cứng, và đau khổ đã làm em nghẹn lời. Điều em muốn nói lúc nầy là em sợ anh cũng sẽ rơi vào vòng lao lý như em.”

Tôi bèn hỏi nàng, “Nói thế nghĩa là gì em yêu? Vậy em sợ ai?”

Nàng lấy tay che mặt và trả lời tôi, “Ông Tổng Giám mục Paul Ghalib đã biết mỗi tháng một lần em bước ra khỏi “ngôi mộ” mà ông ta đã chôn em.”

Tôi tiếp tục gạn hỏi, “Ông ta có biết chúng mình gặp nhau ở đây?”. Nàng trả lời, “Nếu ông ta biết thì anh đã chẳng thấy em đến đây ngồi bên anh. Nhưng càng ngày ông càng nghi ngờ và cho gia nhân theo dõi em kỹ lưỡng. Em cảm thấy trong nhà cũng như trên đường em đi đều có những cặp mắt luôn rình rập, những ngón tay chỉ chỏ và những đôi tai nghe ngóng tiếng thì thầm phát đi từ con tim em”.

Lệ lăn dài trên đôi má, nàng cúi đầu hơi thấp một chút, và nói “Em không sợ ông ta vì người bệnh cùi thì sợ gì ghẻ ngứa. Nhưng điều em sợ là sợ cho anh, sợ anh bị sa vào cạm bẫy và trở thành con mồi của ông ta. Anh còn trẻ, sung mãn và có nhiều tự do như ánh mặt trời. Giờ đây em không sợ gì cho số phận của em vì nó cũng đã bắn hết những mũi tên vào tâm can em rồi. Em chỉ lo cho anh bị con rắn nó mổ vào chân anh trên đường anh đi lên đỉnh núi, nơi hoan lạc và vinh quang đang đón chờ anh.”

Tôi trả lời nàng, “Kẻ nào không bị loài rắn cắn giữa ban ngày và loài sói vồ vào ban đêm thì kẻ đó bao giờ cũng bị thời gian lừa phỉnh, dù cho đó là ngày hay đêm.”

Nhưng nầy Salma, em yêu dấu! Hãy lắng nghe cho kỹ những điều anh sẽ nói. “Phải chăng trước mặt chúng ta chẳng có gì, ngoài sự cách biệt của chúng ta với  mọi người? Phải chăng con đường tình và tự do trước mặt chúng ta đã bị đóng kín? Phải chăng chúng ta không còn có chọn lựa nào khác ngoài sự tuân phục ý muốn của kẻ nô lệ tử thần?”.

Với giọng nói nghẹn ngào, tuyệt vọng, nàng cất tiếng, “Anh ơi bây giờ chẳng còn gì khác ngoài sự chia ly và từ biệt nhau!”

Sau khi nghe nàng nói, đầu óc bỗng trở nên xung phẩn, tôi bèn nắm lấy tay nàng, “Chúng ta đã chiều ý thiên hạ nhiều rồi. Từ khi chúng mình gặp nhau cho tới nay, chúng ta đã bị dẫn dắt bởi những kẻ mù lòa và đã quỳ lạy thần tượng của họ. Từ ngày anh gặp em cho đến nay, họ coi hai ta gần như là một thứ đồ chơi của trẻ nhỏ, nằm gọn trong tay của ông Tổng Giám mục Paul Ghalib ông ta muốn làm gì mặc lòng. Liệu chúng mình có nên tiếp tục thần phục ông ta cho đến khi tử thần đến đưa chúng ta về lại với lòng đất mẹ? Đâu phải Trời ban cho ta cuộc sống để rồi ta đem đặt nó dười chân của tử thần? Phải chăng Trời cho ta tự do để rồi ta biến nó thành cái bóng che cho kẻ nô lệ ? Kẻ nào chính tay dập tắt ngọn lửa thiêng của linh hồn mình thì đó sẽ là kẻ phản lại Ngài  vì chính Ngài đã thắp sáng ngọn lửa hồn ta. Kẻ nào không chống lại áp bức và bạo quyền thì sẽ là kẻ theo cái sai trái để chống lại cái đúng đắn, là kẻ đồng lõa với kẻ thủ ác đối với người vô tội.

“Anh yêu em Salma ạ! Tình yêu là kho báu mà Tạo hóa đã ban cho những linh hồn nhạy cảm và trân quý. Thế gian đầy những kỳ quan xinh đẹp và quyến rũ; tại sao chúng ta đành phải chịu sống trong những đường hầm chật hẹp tối tăm do ông Tổng Giám mục và những kẻ bợ đỡ của ông ta tạo ra? Cuộc đời đầy hoan lạc và tự do; chúng ta hãy vứt bỏ cái ách đè nặng trên đôi vai chúng ta, chúng ta hãy phá tan xích xiềng trói buộc chân ta và hãy thanh thản nắm lấy an lành. Hãy đứng lên em yêu, chúng mình rời bỏ ngôi đền nhỏ nầy để vào ngôi đền rộng lớn hơn. Ta hãy lánh xa cái xứ sở nầy, cái xứ sở đầy ngu dốt và nô lệ, để đến một đất nước xa hơn ngoài tầm với của phường gian manh trộm cướp. Chúng ta hãy đi nhanh ra bờ biển trong bóng đêm để bước lên con tàu, nó sẽ đưa chúng ta vượt đại dương đến một nơi chúng ta sẽ sống một đời sống thanh khiết thông cảm và hiểu biết lẫn nhau. Nơi đó sẽ không có rắn độc cắn mổ, sẽ không có thú dữ dẫm nát chúng ta. Đừng do dự, Salma em ạ! Những phút giây nầy đối với chúng ta quý hơn vương miện của vua chúa, cao cả và thiêng liêng hơn bệ ngọc ngai vàng của thánh thần. Hãy mạnh dạn đứng lên em yêu! Ta hãy bước theo ánh hào quang, nó sẽ đưa chúng ta ra khỏi sa mạc trơ trụi và khô cằn nầy để đến những cánh đồng xanh, đầy hoa thơm cỏ lạ.”

Salma lắc đầu, nhìn đăm đăm lên một điểm vô hình trên vòm của ngôi đền với một nụ cười gượng nở trên môi, “Không đâu anh yêu! Trời đã đặt trong tay em một chén giấm chua hòa lẫn với mật đắng mà em đã uống, giờ đây còn sót lại chỉ vài giọt thôi, em sẽ nén lòng uống cạn để biết trọn nỗi đắng cay huyền bí nằm ở đáy chén. Em thấy em chẳng xứng đáng hưởng lấy một cuộc đời mới, tràn đầy yêu thương và an lành. Em không còn đủ sức để đón lấy hoan lạc, ngọt bùi của đời nầy vì con chim đã gãy cánh; bây giờ làm sao nó có thể bay được lên khoảng trời xanh. Mắt mờ quen với thứ ánh sáng yếu ớt, bây giờ nó không thể nhìn thứ ánh sáng rực rỡ được nữa. Bởi vậy, anh yêu đừng nhắc chi đến chuyện hạnh phúc; hạnh phúc bây giờ đối với em nghe nó có vẻ xa vời, xin anh đừng nhắc chi đến kỷ niệm, nó làm lòng em khổ đau vô cùng . Cũng đừng nói chi đến an lành vì đó chỉ là cái bóng làm em khiếp sợ. Nhưng anh yêu! Anh hãy nhìn em, em sẽ cho anh thấy ngọn đuốc thiêng ông Trời thắp sáng trong đống tro tàn của lòng em.

Anh yêu! Như anh biết đó, em yêu anh bằng một tình yêu nồng ấm như tình yêu người mẹ dành cho đứa con một của mình. Tình yêu ấy đã dạy bảo em biết cách che chở cho anh và ngay cả cho chính bản thân em. Tình yêu được  thanh lọc, trui rèn trong lửa đã ngăn bước không cho em theo anh đến tận góc bể chân trời; tình yêu đã dập tắt ước vọng của em để anh được sống thanh thản, và anh không phải nghe những lời dị nghị đàm tiếu của người đời. Tình yêu hẹp hòi là thứ tình yêu lúc nào cũng muốn chiếm hữu người mình yêu; nhưng tình yêu rộng lượng trong yếu tính luôn là thứ tình yêu dâng hiến. Tình yêu giữa thời thơ dại và tuổi hoa niên tự mãn, giản đơn với nụ hôn và vòng tay thân ái. Nhưng tình yêu sinh ra trong lòng trời và bí mật bước xuống trần gian trong đêm tối thì nó sẽ chỉ bằng lòng với Vô Cùng; nó chẳng chịu nghiêng mình trước bất cứ gì ngoài Linh Thánh!

“Khi em biết ông Tổng Giám Mục Paul Ghalib có ý muốn ngăn cấm không cho em rời khỏi ngôi nhà của người cháu ông ta, và có ý muốn tước bỏ đi niềm vui của em có được kể từ ngày thành hôn thì em thường đứng bên cửa sổ phòng ngủ của em đưa mắt ngóng về hướng biển, nghĩ tới những miền đất bao la ở phương trời vô định, đến sự tự do tinh thần riêng tư của con người ở bên kia bờ đại dương. Lúc đó em mường tượng ra cảnh em sống cận kề bên anh, được đùm bọc và che chở trong vòng tay anh thân yêu của anh.”

“Nhưng những ước mơ thắp sáng trái tim tan nát của người phụ nữ và khiến chúng đứng dậy chống lại những hủ tục, chúng hy vọng sẽ được sống trong tự do và công lý— chúng đã đến với tôi nhưng tôi coi thường không nắm bắt lấy. Bây giờ tôi tự trách mình sao quá yếu đuối và khờ dại đã xem thường tình yêu không dám đối diện với nó. Tôi kêu than như một ông vua đánh mất ngai vàng hay kêu than thảm thiết như một tên phú hộ mất cả gia tài. Nhưng cùng lúc, qua dòng nước mắt em nhìn thấy anh cũng đang nhìn em. Em nhớ có lần anh bảo em, “ Salma ! Nào chúng mình hãy đi hiên ngang như những chiến sĩ trực diện với kẻ thù.  Nếu phải chết, chúng ta hãy chết như những kẻ tử vì đạo; nếu chiến thắng, chúng ta sẽ sống hiên ngang như những người anh hùng. Đương đầu với cam khổ gian nguy còn cao cả hơn là đớn hèn cầu an tháo chạy”.  “Những lời nầy anh thốt lên khi đôi cánh tử thần lượn quanh giường cha em nằm. Em còn nhớ mới hôm qua đây, đôi cánh tuyệt vọng bay lượn quanh đầu em. Em tập trung nghị lực và thấy có được tự do quý báu ngay trong cảnh tăm tối của ngục tù,— một thứ tự do làm tiêu tan phiền não và u sầu. Em thấy tình của chúng ta sâu như đáy đại dương, cao như ngàn sao trên trời. Hôm nay em đến đây với anh trong một nguồn lực mới trong tâm hồn chưa hết âu lo, với một ý chí có thể hy sinh cái điều bình thường cho điều cao trọng hơn. Hy sinh niềm vui sướng để được ngồi bên anh mong sao anh được người đời trọng vọng. Trong quá khứ, khi đến đây em cảm thấy chân em như bị xiềng xích buộc chặt, nhưng hôm nay em đến đây như một người phụ nữ quả cảm, xem thường sức nặng của gông cùm và cố rút con đường ấy lại để cho nó ngắn hơn. Trong quá khứ, em đến đây như một bóng ma, đi gõ cửa từng nhà, gây ra cho mọi người bao nỗi khiếp sợ; nhưng hôm nay em đến đây như một người phụ nữ coi trọng sự hy sinh, biết được giá trị của khổ đau, sẵn sàng đứng ra bảo vệ người mình yêu để anh ta tránh xa những kẻ u mê và bước ra khỏi ngọn lửa dục của lòng mình. Trước kia, em thường đến ngồi bên anh như một chiếc bóng run rẩy, nhưng hôm nay em đến đây để cho anh thấy được con người chân thực của em trước nữ thần Astarte và Chúa Giê-Su bị đóng đinh trên thập tự giá. Em là một thân cây lớn lên trong bóng đêm; nhưng hôm nay thân cây này vươn cành thả bóng mát giữa ban ngày. Em đến để chào từ biệt anh yêu. Mong sao sự chia ly của chúng ta cũng sẽ được cao cả và khả kính tựa như cuộc tình của chúng ta. Chúng ta hãy biến nó thành ngọn lửa thiêng để cho thỏi vàng kia thêm ngời sáng.”

Salma không cho tôi cơ hội được lên tiếng hoặc phản đối. Thay vào đó, nàng nhìn tôi với đôi mắt ngời sáng, gương mặt nghiêm nghị, ánh mắt nàng khiến tôi phải lặng thinh để chiêm ngưỡng.

Đoạn nàng ngả người âu yếm ôm chầm lấy tôi bằng một cử chỉ thiết tha tôi chưa từng thấy. Dùng chiếc khăn lụa choàng quanh cổ tôi, rồi nàng đặt những nụ hôn thật dài, nồng nàng và bỏng cháy lên môi tôi.  Lúc nầy tôi thấy người tôi lâng lâng và phấn chấn hẳn lên; những điều ngủ quên lâu ngày trong lòng tôi nay bổng vỡ òa nhảy múa.

image3             

Khi mặt trời xuống thấp, gần khuất dưới chân trời, những tia nắng vàng nhạt yếu ớt cũng bắt đầu thu mình rút khỏi những hoa viên và vườn cây ăn trái, Salma đứng dậy tiến đến giữa ngôi đền, chú mục một hồi lâu vào những bức tường, vào từng góc tối như thử nàng muốn trút ánh hào quang từ mắt nàng vào các bức tranh và hình tượng. Nàng bước về gần tượng Chúa Giê-Su, và quỳ xuống kính cẩn hôn lên bàn chân đầy thương tích của Ngài, “Chúa ơi! Chúa đã chọn chiếc thập tự giá và từ bỏ niềm hoan lạc mà nữ thần Astarte đã ban cho. Phần con, con đã đội chiếc mão đầy gai nhọn, và vứt bỏ chiếc vòng nguyệt quế; con tự tắm gội bằng máu và nước mắt của chính con, trộn lẫn với nhau thay vì bằng hương hoa. Con uống dấm chua hòa chung với mật đắng đựng trong một cái ly, đáng lẽ dùng để đựng rượu nho và mật ngọt. Chúa ơi ! Xin Chúa hãy thu nhận con làm môn đồ của Chúa,con nguyện sẽ làm người quả cảm thay vì yếu hèn, xin Ngài hãy đưa con về lại với Golgotha * đồng hành với những kẻ mà Ngài đã chọn. Họ sẽ bằng lòng với tất cả những buồn vui và đớn đau của họ.”

Đoạn nàng đứng lên nhìn tôi và nói, “Giờ đây em vui sướng trở về lại với cái hang tăm tối, nơi ngự trị bởi những bóng ma kinh hoàng. Đừng chia buồn chi cho em, anh yêu ! Cũng đừng buồn vì em. Mảnh linh hồn có lần nhìn thấy hình bóng của Chúa thì nó sẽ chẳng bao giờ biết sợ bóng ma. Con mắt một lần nhìn thấy cõi Trời thì sẽ không thể nào làm ngơ trước những đớn đau của trần thế”.

Sau khi dứt lời, Salma, trong bộ xiêm y bằng lụa, liền bước ra khỏi ngôi đền, bỏ mình tôi ở lại, hồn phách tôi rơi lạc vào hố sâu của tư tưởng và phiêu bạt vào một thế giới ảo mộng, nơi có Ngọc Hoàng  ngự trị, có Nam Tào Bắc Đẩu ghi công chép tội của lòai người ở hạ giới, có những vong hồn kể lể những thảm kịch của trần gian, những tiên nữ ca tụng tình yêu, kể lể những u sầu khổ đau và sự trường sinh bất tử.

image4                                    The Loving Couples

Khi tỉnh cơn mê thì trời đã tối. Tôi cảm thấy mình như đang đi dạo trong những khu vườn, cố nhớ lại dư âm những lời Salma đã thốt ra, nhớ lại những cử chỉ và vẻ mặt an nhiên tự tại của Salma, đôi tay nàng mơn trớn; tôi miên man chìm sâu vào biển nhớ cho đến khi tôi nhận ra được ý nghĩa bản chất của niềm đau và nỗi khổ, sự cô đơn và cay đắng của cuộc chia ly coi như là một định mệnh chụp phủ lấy đời tôi. Tôi cảm thấy tuyệt vọng và cõi lòng tôi tan tác. Đó là lần đầu, tôi, một người đàn ông -dù khi chào đời sẵn có tự do- nghiệm ra rằng y cũng vẫn là kẻ nô lệ của những điều luật khắc khe tệ hại do cha ông để lại, định mệnh mà ta coi như những điều huyền bí thiêng liêng; thì thực ra đó cũng chỉ là sự đầu hàng của hôm nay đối với ngày mai; sự tuân phục ngày mai là khát vọng của hôm nay.

Kể từ đêm hôm đó cho đến nay, đã bao lần tôi suy gẫm về những điều luật khiến cho Salma phải chọn lấy một quyết định sinh tử: thà chết mà thảnh thơi còn hơn là sống mà khổ sở đớn đau. Biết bao lần tôi đã so sánh cái cao quý của sự hy sinh và cái khoái cảm của sự nổi loạn, để quyết định xem cái nào thực sự là cao quý hơn cái nào. Tuy nhiên cho tới bây giờ, tôi đã gạn lọc được một sự thật duy nhất nầy: Chỉ có lòng chân thành mới làm cho những hành động của chúng ta trở nên thiện hảo và đáng được tôn kính. Niềm Tin Yêu linh thánh và lòng Chân Thành cao trọng, tất cả đã hóa thân thành thục nữ trong một Salma ngời sáng của dòng họ nhà Karamy.

Người dịch :  Nguyễn-văn-Chương   

Chapter IX – The Sacrifice

The Broken Wings

Kahlil Gibran

_________________________

 

Chú thích:

Andalusian      : Thổ ngữ của một tỉnh ở miền Nam Tây Ban Nha.

Granada           :  Một quận ở Nam Tây Ban Nha, quận ly là  Alhamba.

Cordova            :  Một thành phố nằm trên bờ sông Guadalquivir, Nam Tây Ban Nha

 Seville              :  Giống như Cordova, Seville cũng là thành phố nằm trên bờ sông Guadalquivir.

Golgotha          :  Nơi Đức Chúa bị đóng đinh trên Thập tự giá. Người Công giáo coi đây như một miền Đất Thiêng, biểu tượng cho sự Hy sinh.

Có 4 bình luận về ĐỨC HY SINH (The Sacrifice)

  1. Trầm Hương Ptt. nói:

    Kính anh Nguyễn Văn Chương.

    Tôi đã âm thầm đọc bản dịch của anh từng kỳ, khi trang nhà đăng lên…Tôi đã đọc nguyên tác tác phẩm nầy, nhưng có lẻ trình độ có hạn, bây giờ theo dỏi vả đọc bản dịch qua ngòi bút trong sáng của anh, tôi hiểu thêm nội dung tác phẩm cũng như tâm lý nhân vật, nhận thức thêm cái hay cuả tác phẩm. Cám ơn anh. Ptt.

  2. THU CUC nói:

    Kính gởi thầy Chương !

    Bài dịch của thầy hay quá ! Nghệ thuật chuyển ngữ của thầy thật tuyêt vời. Tuy là dịch thuât mà em đoc em cứ nghĩ là tác phẩm của thầy sáng tác bằng văn việt . Nội dung của nguyên tác cũng rất hay . Câu chuyên về một mối tình dang dở mà rất đẹp . Em rất ngưỡng mộ những mối tình đẹp .: Như hai nhân vật chính trong tác phẩm này . Thầy có ý định in thành sách và lấy tựa đề là NỬA CHỪNG XUÂN là hợp lắm đó  :

    ” Phận hồng nhan , có mong manh

    Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương  ”

    Nguyễn Du ( Truyện Kiều )

  3. Hoành Châu nói:

    Kính Thầy .,
    Phải có đoạn này thì mới kết thúc được , Thầy ạ …tác phẩm đem lại cho độc giả niềm hạnh phúc cũng như sự khổ đau  tột cùng   của cặp đôi uyên ương này ,,,Lời dịch  đã  đến cùng người đọc với sự cảm thông sâu sắc . Chúc Thầy khỏe mạnh để đi đến cùng mọi cảm hứng  dịch thuật .
    Em Hoành Châu ( Gia đình C  )

  4. Nguyễn Thị Hạnh nói:

    Lần nào đọc bản dịch của Thầy Chương, em cũng thấy cảm giác náo nức của trò nhỏ mê sách ngày xưa, bắt đầu vào mấy dòng đầu là cắm đau cắm cổ đọc cho tới dòng chữ cuối. Thầy dịch hay quá Thầy ơi.

Trả lời Trầm Hương Ptt. Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác