CƠN PHONG BA (The Tempest)

Ngày đăng: 22/05/2017 10:23:58 Chiều/ ý kiến phản hồi (5)

0 chuong 001

Rồi một hôm, viên ngoại cho người mời tôi đến nhà dùng cơm tối. Tôi nhận lời. Tâm hồn tôi lúc nầy đang khát khao thứ bánh thiêng mà trời đã đặt vào tay Salma, thứ bánh tinh thần chỉ có thể ăn bằng con tim; nhưng lạ thay ăn thì lại càng thấy đói –  thứ bánh ma thuật mà các nhà thơ Ả-Rập Qais, nhà thớ Ý Dante và nhà thơ Hy-Lạp Sappho, đã từng nếm thử, loại bánh đã đốt cháy con tim họ; những chiếc bánh do tay tiên làm , càng nên từ mật ngọt của nụ hôn và vị đắng của nước mắt, đó là cái giá phải trả đối với những tâm hồn nhạy cảm khi nếm thử nó thì họ sẽ hân hoan đến mức đê mê tột đỉnh, để rồi cuối cùng nhận lấy khổ đau.

0 chuong

 

Khi đến nơi, tôi thấy Salma đang ngồi trên chiếc ghế gỗ đặt ở góc vườn, người nàng hơi nghiêng về phía sau, tựa đầu lên thân cây, trong bộ  xiêm lụa trắng, trông nàng như một cô dâu. Còn tôi như một tín đồ ngoan đạo, khép nép đến ngồi im lặng bên nàng tựa như ngồi trước một ngọn lửa thiêng. Khi tôi cố cất lên tiếng nói thì hình như lưỡi tôi bị buộc chặt lại và môi tôi tê cứng như băng giá. Vì thế cho nên tôi đành phải tiếp tục ẩn mình trong sự im lặng— một thứ ngôn ngữ hoàn hảo của con tim. Tôi cũng cảm thấy Salma dường như cũng đang lắng nghe lời nguyện cầu thinh lặng của tim tôi, và bằng đôi mắt của mình nàng cũng nhìn thấy được bóng dáng linh hồn tôi.

Một lát sau, viên ngoại ra vườn đến chỗ chúng tôi. Như lệ thường, ông cụ đưa tay chào như thử cụ chúc phúc cho sự huyền bí vô hình đã trói buộc tâm hồn hai chúng tôi lại với nhau. Ông cụ vừa cười vừa nói, “Thôi chúng mình vào nhà ăn tối nha con trai. Đồ ăn sẵn cả rồi”.

Chúng tôi cùng đứng dậy đi theo ông cụ. Từ làn mi tô đậm, long lanh của mình, Salma liếc nhìn tôi có vẻ thân thương như thử cụm từ “con trai” ấy đã đánh thức trong nàng thứ cảm xúc hoan lạc mới lạ, kết dệt nên tình yêu nàng dành cho tôi, khiến tôi cảm thấy ấm cúng như một đứa trẻ đang  nằm trong vòng tay âu yếm của người mẹ.

Ngồi vào bàn, chúng tôi vừa ăn uống vừa kể cho nhau nghe những câu chuyện vui. Hôm nay chúng tôi cũng ngồi trong phòng ăn như hôm trước, thưởng thức nhiều món khoái khẩu, nhấm nháp thứ rượu vang lâu năm. Tâm hồn chúng tôi lâng lâng  như muốn bay bổng lên một thế giới  xa lạ, mơ hồ, chuẩn bị để đứng trước nhiều thử thách ghê gớm. Ba chúng tôi chẳng ai nghĩ giống ai; bởi  cuộc đời mỗi người một khác; nhưng trong sâu thẫm của tâm hồn thì mỗi người lại có một điểm chung là con tim chúng tôi được kết nối với nhau bằng tình yêu và tình bằng hữu – ba con người ngây ngô yếu đuối, sở hữu được phần tâm cảm tương đối nhậy bén nhưng phần tri thức thì nghèo nàn. Tấm bi kịch nầy thường diễn ra trên sàn diễn của tâm hồn một người cha già đáng kính, nặng tình phụ tử, thương yêu con và lấy làm vui khi thấy con mình hạnh phúc – một thiếu nữ phẩm hạnh, đang hướng nhìn về tương lai bất định của mình, ở đó vui buồn lẫn lộn, nó cứ đeo bám số phận nàng – và một chàng trai với một tâm hồn mơ mộng, nhút nhát, chàng chưa dám nếm thử vị ngọt của men tình hay vị chua của cuộc đời, để chàng có thể soải đôi cánh bay vào khung trời của yêu đương và của hiểu biết; hơn nữa, chàng lại quá yếu đuối không dám cất cánh tung bay vào quãng trời xanh .

Lúc nầy hoàng hôn đã buông xuống, chụp phủ lấy ba chúng tôi đang ngồi ăn quanh một cái bàn xinh xắn, trong ngôi nhà thanh vắng, nằm xa thành phố. Ba chúng tôi ăn uống trò chuyện vui vẻ; nhưng hình như ở tận đáy những chiếc ly và chén bát dường như ẩn náu một số phận nghiệt ngã đang chờ đợi chúng tôi.

Chúng tôi còn đang ăn thì một đứa tớ gái bước vào phòng báo cho viên ngoại, “Dạ thưa ông, có người muốn gặp ông”. Viên ngoại liền hỏi, “Ai vậy ?”. “Dạ thưa, con nghĩ chắc đó là người của Đức Tổng giám mục, chủ chăn của địa phận mình”.

Viên ngoại không nói gì nhưng lại nhìn vào mắt Salma như để tìm hiểu điều gì đó giống như một đấng tiên tri ngước nhìn lên bầu trời để khám phá những điều bí ẩn  cao xa bên trên. Đoạn viên ngoại quay sang đứa tớ gái, “Con ra cho anh ta vào đây”.

Cô tớ gái lui ra, một chập sau, bước vào một người đàn ông có bộ râu mép hình cá chốt, mặc đồ thêu rua vàng óng ánh. Y cúi chào và báo cho viên ngoại biết, “Đức Tổng giám mục cho con đưa xe riêng đến mời cụ ông vui lòng đến tư dinh Đức Tổng giám mục để Người bàn với cụ chuyện gì đó, hình như gấp lắm”. Ông cụ liền đứng dậy, sắc mặt trông có vẻ ưu tư đầy lo lắng. Ông cụ bước đến gần bên tôi và ôn tồn cất tiếng, “Bác hy vọng con còn ở đây cho đến khi bác quay lại và đêm nay, Salma sẽ yên tâm khi có con bên cạnh trong ngôi nhà hiu quạnh nầy”. Rồi ông cụ quay sang Salma, vừa cười vừa nói, “Phải vậy không Salma?”

Nàng gật đầu, đôi má  đỏ au. Với giọng nói nghe thảnh thót như tiếng sáo trúc, nàng ôn tồn, “Thưa cha, con sẽ cố gắng hết sức mình để làm vui lòng vị khách của chúng ta”.

Viên ngoại cùng với người của ngài Tổng giám mục ra xe. Salma vẫn đứng và qua khung cửa sổ, nàng nhìn theo cho đến khi tiếng vó ngựa tắt hẳn và chiếc xe lẩn khuất sau bức màn đêm. Rồi nàng đến ngồi đối diện với tôi trên chiếc ghế bọc lụa màu xanh lục. Trong bộ xiêm y trắng, lại ngồi trên chiếc ghế màu xanh lục,  nàng trông như cành hoa huệ vươn lên trên đám cỏ xanh sau lúc làn gió ban mai thổi qua. Duyên trời đã định. Đêm nay tôi cùng Salma ở trong ngôi nhà hiu quạnh nầy, xung quanh đầy hoa lá, chập chờn bóng hình của tình yêu và sắc đẹp. Tất cả dường như chìm sâu trong cõi hư vô.

Thời gian đi qua, nhưng chúng tôi vẫn giữ im lặng, trên nét mặt mỗi người đều lộ rõ nét suy tư, u uẩn; người nầy chờ người kia cất tiếng. Phải chăng lời nói có thể mang lại nhịp cầu kết nối sự đồng cảm giữa hai tâm hồn trinh khiết? Phải chăng những âm tiết phát đi từ bờ môi và cuống lưỡi sẽ kết hợp hai tâm hồn  lại với nhau? Phải chăng có cái gì đó thiêng liêng và tinh khiết hơn là ngôn từ thốt ra từ cửa miệng con người? Phải chăng sự im lặng sẽ mang những tia sáng của tâm hồn người nầy đến với người kia? Phải chăng im lặng sẽ kéo chúng tôi ra khỏi bản ngã của mỗi người để chúng tôi có thể bay vào thế giới tâm linh và gặp nhau ở cõi Trời để chúng tôi hiểu ra rằng thân xác nầy không gì hơn là ngục thất và nhân gian nầy không gì hơn là một chốn lưu đày?

Salma chăm chú nhìn tôi; đôi mắt nàng nói lên nhiều điều bí ẩn trong tâm hồn nàng. Rồi bằng một giọng ung dung và quyến rũ, nàng cất tiếng, “Thôi bây giờ anh em mình ra ngoài vườn, ngồi dưới bóng cây để ngắm trăng lên bên kia đầu núi!”.

Tôi ngoan ngoãn nghe theo và đứng lên; nhưng lòng tôi có đôi chút ngại ngùng. Tôi bảo nàng nên chăng chúng mình cứ ở lại đây cho đến khi trăng lên soi sáng cả khu vườn rồi hãy đi?  Giờ thì bóng đêm vẫn còn bao phủ cả lá hoa, cho nên chúng mình không thể nhìn thấy được gì! ”

Nàng khẽ đáp, “Ừ ! Bóng đêm có thể che kín hoa lá quanh ta chứ nó không thể nào che khuất được tình yêu ấp ủ trong tim của chúng mình”.

Nàng thốt lên những lời nầy bằng một giọng khác lạ. Rồi nàng quay nhìn qua cửa sổ. Tôi vẫn giữ yên lặng, suy nghĩ về những gì nàng vừa nói, cố tìm hiểu từng lời nàng thốt ra. Thế rồi nàng quay sang nhìn tôi với vẻ mặt như thử nàng hối tiếc vì đã trót nói ra những lời ấy và giờ đây bằng ma thuật của đôi mắt, nàng muốn rút lại những lời nói ấy từ tai tôi. Nhưng ma thuật của đôi mắt nàng không sao lấy lại được những lời nói ấy, trái lại chúng càng in sâu thêm vào lòng tôi; những lời tâm sự ấy vẫn nằm y nguyên chỗ cũ và sẽ ở đó mãi cho đến cuối đời tôi.

Ở đời nầy, sự vĩ đại và cái đẹp thường được bắt đầu chỉ bằng một ý tưởng đơn giản hay một cảm xúc sơ sài của con người. Tất cả những công trình của thế hệ đi trước mà ngày nay chúng ta đã từng chứng kiến đều là thành tựu từ những ý nghĩ thầm kín nằm trong đầu óc của người đàn ông hay trong trái tim của người đàn bà. Những cuộc cách mạng khiếp đảm, làm đổ nhiều máu và nước mắt nhằm tôn vinh cái ý tưởng tự do, đôi khi tựu trung cũng chỉ là thứ ý tưởng ngông cuồng, nằm trong đầu óc của một con người bình thường, trong số hằng nghìn con người bình thường khác. Những cuộc chiến tranh tàn phá, lật đổ các ngai vàng và vương quốc, cũng đều bắt nguồn từ đầu óc của một cá nhân. Những lời dạy thiêng liêng làm thay đổi cuộc đời con người là những hoài vọng cao đẹp trong tâm hồn của một con người tài ba, ở trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Một ý tưởng nhiều khi cũng có thể nhấc bổng những kim tự tháp; một ý tưởng nhỏ nhoi cũng có thể san bằng thành Tơ-roa(*) dễ như trở bàn tay; một ý nghĩ cũng có thể lập nên Đạo Hồi, và chỉ một lời nói đơn giản cũng có thể phá tan cái thư viện cao sừng sững của thành phố Alexandria(**).

Một ý tưởng đến với bạn trong đêm thinh lặng có thể đưa bạn đến vinh quang hay thảm bại. Một cái liếc nhìn từ khóe mắt của một người phụ nữ cũng có thể khiến bạn trở thành một ngưởi đàn ông hạnh phúc hay là một kẻ khốn khổ suốt một đời. Những lời thốt ra từ miệng một người đàn ông có thể làm cho bạn thoát khỏi sự túng thiếu mà giàu lên hay khiến bạn từ chỗ giàu có lại trở thành nghèo khổ. Một lời nói của Salma trong đêm thanh vắng hôm ấy đã đặt tôi vào vị thế tiến thoái lưỡng nan, giữa quá khứ và vị lai, giống như con tàu chông chênh giữa vực sâu biển cả và lơ lửng giữa chín từng mây. Một lời nói từ trái tim khiến cho tôi thoát khỏi sự u mê ngu muội, khiến tháng ngày của tôi trên sàn diễn của tình yêu nơi mà  sự sống và cái chết đang được thử thách.

Ra vườn đi dạo dưới bóng cây, chúng tôi cảm thấy những cơn gió heo may lướt nhẹ qua mặt hai chúng tôi, trong khi đó hoa cỏ đón chào ve vuốt từng bước chúng tôi đi. Hai đứa chúng tôi đến ngồi trên cái ghế dài bằng gỗ, đặt bên cạnh mấy bụi hoa nhài. Cả hai chúng tôi chẳng ai nói lời nào mà chỉ lắng nghe hơi thở của cảnh vật xung quanh. Qua hương hoa mật ngọt những lời thở than của cỏ cây hoa lá, chúng tôi thấy được sự mầu nhiệm của con tim chúng tôi khi chúng tôi ở giữa thiên nhiên xinh đẹp hữu tình như thế nầy.

Rồi trăng ló dạng phía sau ngọn San-nin. Ánh trăng tỏa sáng khắp các dãy đồi trùng điệp xa xa. Làng mạc dọc theo sườn đồi trông mờ ảo dưới ánh trăng. Hình ảnh xứ Li-băng đêm nay hiện ra ảo dịu, lấp lánh dưới ánh trăng trông tựa như một chàng thanh niên dùng tay mình làm gối kê đầu nằm ngủ.

Đối với những nhà thơ phương Tây, Li-băng là một nơi thần tiên thơ mộng; nhưng bây giờ nó đã khác; cái dáng dấp kiều diễm ấy đã ra đi cùng với các vì vua David, Solomon và các đấng tiên tri, tương tự như vườn địa đàng mà thiếu vắng cặp đôi Adam – Eve. Cái đêm xa xưa ấy, Li-băng trông thật thơ mộng, đẹp như một giấc mơ. Phải chăng giờ đậy mọi vật đã thay hình đổi dạng cùng với sự thay đổi trong cảm nhận của tôi với cảnh vật bên ngoài ?

Salma quay sang phía tôi. Ánh trăng rọi khắp trên mặt, trên cổ, trên tay Salma, trông nàng như một pho tượng ngà, khắc tạo nên bởi bàn tay của Astarte, một nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Ngước nhìn tôi, nàng cất tiếng hỏi, “Tại sao nãy giờ anh không nói gì ? Tại sao anh không kể cho em nghe những câu chuyện về thời quá khứ của anh?”.

Đăm đăm nhìn vào đôi mắt long lanh của nàng, tự nhiên sự câm lặng trong tôi cũng đã tan biến; thay vào đó là tiếng thì thầm, “Em chẳng nghe anh nói gì khi chúng mình đến đây sao? Em chẳng nghe những gì anh nói khi chúng mình bước vào khu vườn nầy? Tâm hồn em nghe được lời thì thầm của loài hoa và khúc hoan ca của thinh lặng thì anh hy vọng nó cũng có thể nghe được tiếng gào thét, tiếng thở than của hồn anh.”

Nàng lấy tay bụm mặt lại và nói, “Dạ vâng, em có nghe. Em nghe tiếng nói của anh giữa lòng đêm tối và tiếng gào thét của tim anh giữa ánh sáng ban ngày.”

Khi nghe nàng thốt lên những lời ấy, tôi quên hầu như cả mọi thứ, ngay cả sự hiện hữu của tôi, ngoại trừ Salma. Tôi liền trả lời nàng, “Ừ anh cũng nghe em nói Salma ạ. Anh nghe thấy khúc hoan ca, hòa điệu trong không trung thành một bản hợp xướng, khiến cả đất trời dường như cũng rung động.”

Khi nghe tôi nói những lời nầy thì nàng lim dim đôi mắt và mỉm cười, trên đôi môi hồng điểm một nụ cười hân hoan, nhưng đượm đôi chút ưu tư. Rồi nàng thì thầm, “Giờ đây em mới biết trên đời nầy có những điều còn cao hơn trời xanh, sâu hơn biển cả, mãnh liệt hơn sự sống và cái chết. Giờ đây em mới biết được điều mà ngày hôm qua em chưa biết, cái mà em cũng chẳng thấy được ngay cả trong giấc mơ”.

Kể từ giây phút đó, Salma Karama tỏ ra thân thiết với tôi hơn trước – thân hơn là một người bạn, gần gũi hơn là một người em gái, dấu yêu hơn là một người bạn lòng. Nàng đã trở thành một thứ tư tưởng tối thượng, luôn bám víu lấy đầu óc tôi, một cảm xúc lâng lâng luôn ôm chặt lấy trái tim tôi, một giấc mơ tuyệt vời cạnh kề trong hồn tôi.

Có ai dại khờ tự nhiên mà cho rằng tình yêu thản nhiên sinh ra từ sự giao du lâu dài hay từ một tình bằng hữu dai dẳng? Tình yêu đích thực chỉ có được khi hai tâm hồn thông hiểu nhau. Nếu sự thông hiểu ấy không được thực hiện ở một thời điểm thích hợp nào đó thì nó sẽ không bao giờ trở thành hiện thực – dù cho thời gian có kéo dài trong một năm hoặc trong một thế kỷ.

Salma ngước nhìn về phía chân trời xa, nơi ngọn núi San-nin tiếp giáp với bầu trời. Rồi nàng cất tiếng, “Ngày hôm qua, anh là người anh thân thiết, gần gũi của em, người mà khi ngồi bên cạnh, em nhìn thấy được hình ảnh người cha của em. Nhưng giờ đây em cảm thấy có cái gì đó còn mãnh liệt hơn, thứ tình cảm  đặc biệt hơn là tình cảm của người anh em thân tộc, một cảm xúc dâng trào, kết hợp giữa yêu thương và e ấp, buồn vui lẫn lộn, ngổn ngang trong lòng.”

Tôi liền đáp lại, “Phải chăng cảm xúc nầy làm ta run sợ khi nó vào lòng ta, nó là thứ luật mà Tạo hóa đã đặt mặt Trăng vào quỹ đạo quanh trái Đất, đặt trái Đất vào quỹ đạo quanh mặt Trời, và tất cả những thứ ấy xoay quanh một Đấng Tối Cao?”.

Nàng đặt tay lên đầu tôi và dùng những ngón tay đan xen vào tóc tôi. Gương mặt nàng rạng rỡ, đôi mắt nàng long lanh, những giọt nước mắt trông như những giọt sương trên cánh hoa thủy tiên. Nàng đưa ra câu hỏi, “Ai có thể tin được chuyện nầy của chúng mình? Ai có thể chỉ trong một sớm một chiều có thể vượt qua được nhiều chướng ngại để xóa bỏ hố ngăn cách giữa nghi ngờ và tin tưởng? Ai có thể chấp nhận mùa xuân năm ấy lần đầu tiên nó đưa chúng ta gần lại với nhau, phải chăng đó cũng là tháng ngày đã đưa chúng ta vào chốn thiêng liêng nhất của đời người?”

Nàng vẫn để tay trên đầu tôi khi nói chuyện, và lúc ấy nếu cần một sự chọn lựa thì tôi cũng sẵn sàng từ bỏ chiếc vương miện hay vòng nguyệt quế để đổi lấy những ngón tay búp măng thon mịn của nàng đang cài sâu trong tóc tôi. Tôi đáp lời nàng, “Người ta sẽ không tin câu chuyện của chúng mình bởi họ không thể hiểu được rằng tình yêu chỉ như một loài hoa sinh ra, lớn lên và trổ bông mà không cần sự kết hợp của tiết mùa. Nhưng phải chăng mùa xuân ấy lần đầu tiên đã tác hợp để  chúng mình gần nhau? Phải chăng chính bàn tay của đấng Chí Tôn đã kết hợp hai tâm hồn chúng mình lại với nhau từ trước khi chúng mình chào đời, và an bài để chúng mình trở thành tù nhân của nhau mãi cho đến thiên thu? Này Salma, cuộc đời của một con người không hẳn khởi đầu từ bụng mẹ và cũng không chấm dứt nơi đáy của mộ phần. Bầu trời vô biên kia ngập tràn ánh trăng; nơi muôn vì sao lấp lánh kia cũng không thiếu vắng những tâm hồn biết yêu thương, ôm ấp ràng buộc lấy nhau trong sự cảm thông ”

Salma khẽ rút tay ra khỏi đầu tôi, gây nên một cảm giác “tê lạ”  nơi chân tóc khi cơn gió đêm lướt qua, vuốt nhẹ lên mái tóc tôi. Như một tín hữu tìm lấy ân điển trên bệ thánh, tôi đưa tay nắm lấy tay nàng đặt lên đôi môi bỏng cháy của tôi và hôn thật lâu – một nụ hôn có thể làm vỡ òa những cảm xúc ẩn chứa trong con tim và bằng vị ngọt của tình yêu, nó có thể đánh thức mọi phẩm hạnh đang cư trú trong hồn tôi.

Một giờ đồng hồ trôi qua. Mỗi giây phút như một năm dài, chứa đầy những đam mê và yêu dấu. Đêm thinh lặng chụp phủ lấy hai chúng tôi; ánh trăng chan hòa gội rửa cỏ cây hoa lá chung quanh. Ngoại cảnh bây giờ làm tôi quên đi tất cả, ngoại trừ tình yêu. Âm vang tiếng vó ngựa và tiếng lọc cọc của bánh xe cọ xát mặt đường, nghe mỗi lúc một gần. Chúng tôi tỉnh giấc một cơn mê, rời bỏ  một thế giới ảo mộng để về lại với thực tại ở thế gian nầy. Tôi thấy cha già đã quay về từ “Vương quốc” của vị Tổng giám mục. Salma và tôi liền đứng dậy đi ra đón  người.

Chiếc xe ngựa dừng ngay lối vào khu vườn và viên ngoại Karama bước xuống xe, chậm rãi đi về phía chúng tôi, đầu hơi cúi xuống, ông cụ trông có vẻ mệt mỏi, bước đi hơi lảo đảo như thử ông đang vác trên vai một khối đá nặng nghìn cân.

Viên ngoại đến gần bên Salma, hai tay ông để lên đôi vai nàng, nhìn đăm đăm vào mặt Salma một hồi lâu như thử ông ngỡ rằng hình ảnh người con gái trước mắt ông giờ đây không chắc là của Salma. Rồi những giọt nước mắt bắt đầu lăn dài xuống hai đôi má nhăn nheo, khô cứng của ông, môi ông run rẩy gượng cười. Viên ngoại nghẹn ngào cất tiếng, “Này Salma yêu quí của cha, theo ý Chúa thì chẳng còn bao lâu nữa con sẽ phải rời khỏi ngôi nhà hiu quạnh nầy để bước vào một trường đời rộng lớn hơn; khu vườn nầy sẽ nhớ lấy những bước chân con đi ngày nào, và cha sẽ trở thành một kẻ xa lạ đối với con. Định mệnh đã lên tiếng, Salma ạ. Cầu mong ơn trên ban phước lành và phù hộ cho con!”

Sắc mặt nàng liền thay đổi khi nghe những lời nầy. Salma thảng thốt nhìn trân trân như thử giờ đây một bóng ma đang chập chờn trước mặt nàng. Rồi nàng vật vã, run rẩy kêu than như con chim trúng tên, sa vào tay một kẻ đi săn. Bằng một giọng thảng thốt, uất nghẹn, nàng cất tiếng, “Cha ơi, cha nói gi vậy? Thế nghĩa là gì vậy cha? Cha sẽ đưa con đi về đâu?”

Nàng đăm đăm nhìn người cha, có vẻ dò xét để tìm ra điều bí ẩn nầy. ”Giây phút im lặng, nặng nề, nghe như tiếng kêu than u uẩn của thây ma dưới đáy mồ đã đi qua. Thở ra một hơi dài ảo não, nàng tiếp, “Giờ thì con đã hiểu…Con hiểu tất cả. Đức Tổng Giám mục, chủ chăn của Giáo phận, Ngài đã cố tình cài đặt chiếc lồng để bắt nhốt con chim gãy cánh nầy, rồi làm cho nó “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”(***) Và đó cũng là ý muốn của cha, có phải vậy không cha ơi ?!”

Ông cụ chỉ biết trả lời bằng những tiếng thở dài. Đoạn ông cụ âu yếm dắt Salma vào trong nhà; tôi đứng chơ vơ một mình giữa những hàng cây, lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò; ưu tư dồn dập nổi lên vây hãm hồn tôi như những cơn gió thu lửng lờ bỡn cợt những chiếc lá vàng rơi lả chả. Rồi tôi cũng theo hai người vào phòng khách. Hòng  tránh sự tò mò của mọi người, tôi bèn chào xin phép ông cụ ra về. Tôi lặng nhìn Salma như thử nhìn một vì sao sáng trên trời. Tôi lặng lẽ bước ra khỏi nhà, không dám để cho ai nhìn thấy. Nhưng khi vừa đi đến gần cuối khu vườn, tôi chợt nghe tiếng ông cụ gọi; quay lại tôi thấy cụ ông vội vã đi theo. Khi gặp được tôi, cụ liền nắm chặt lấy tay và nói với giọng run run, “Con thứ lỗi cho bác nha! Bác đã làm con mất vui; hẳn là đêm nay những giọt nước mắt của con sẽ lăn dài trên đôi má. Nhưng bác mong con vẫn luôn đến thăm bác; bởi nơi đây sẽ trở nên vắng lặng, ngoại trừ tuổi già neo đơn của bác.

Bác biết tuổi trẻ khó lòng hòa hợp được với tuổi già, tựa như bình minh với hoàng hôn. Nhưng con cũng nên thường tới lui với bác, giúp bác nhớ lại thời trai trẻ mà  bác đã sống cùng với cha của con; con sẽ kể lại cho bác nghe những câu chuyện của cuộc sống mà bây giờ bác không còn có được nữa, có phải vậy không con? Con sẽ đến thăm bác khi Salma không còn ở nơi đây. Nơi đây sẽ chỉ còn lại một mình bác, đơn chiếc trong ngôi nhà hiu quạnh nầy?”

Ông cụ thốt lên những lời nầy bằng giọng nói trầm trầm và đứt quãng. Tôi lặng lẽ nắm chặt tay ông cụ khi nghe ông nói những lời buồn thảm nầy. Những giọt lệ từ đôi mắt đỏ hoe của ông cụ rơi xuống tay tôi, đọng lại vẫn còn hơi ấm. Lòng tôi se lại và  tình phụ tử đã chiếm trọn lấy hồn tôi. Khi tôi ngước mắt nhìn lên, ông cụ liền hiểu ra rằng chính tiếng khóc của ông đã làm tôi không cầm được nước mắt. Ông cụ cúi xuống hôn lên trán tôi, và ông nhìn ra cửa rồi nói, “Tạm biệt con. Thôi tạm biệt con trai của ta!”

Những giọt nước mắt trên đôi má nhăn nheo khô cằn của một ông lão có nhiều ý nghĩa hơn là những giọt nước mắt của một người trai trẻ.

Tháng năm huy hoàng đến từ khắp mọi ngăn ngách trái tim của tuổi trẻ, trong khi đó, những giọt nước mắt của tuổi già thì chỉ là cáo cặn của cuộc đời, tàn dư của một tấm thân yếu đuối.

Giọt nước mắt của người thanh niên giống như những giọt sương lấp lánh trên những cánh hoa hồng; nhưng những giọt nước mắt người già thì tựa như những chiếc lá thu, khi cuộc đời trở nên lụn tàn, băng giá.

Khi rời khỏi ngôi vườn, tôi vẫn còn nghe giọng nói của Salma vang vọng trong tai tôi, tấm nhan sắc của nàng vẫn theo tôi như bóng dáng một thiên thần. Trên tay tôi, những giọt nước mắt cha nàng cũng dần khô.Tôi bước ra khỏi nơi ấy như Adam bước ra khỏi vườn Đia Đàng; nhưng nàng Eve lại không đồng hành cùng  tôi, để chúng tôi có thể biến cả thế gian nầy thành một vườn Địa Đàng. Đêm hôm ấy là đêm tôi được tái sinh nhưng đồng thời đó cũng là đêm lần đầu tiên tôi chạm mặt tử thần.

Thế là bằng sức nóng của mình, mặt Trời đã làm cho những cánh đồng xanh tốt, tươi trẻ hẳn lên, nhưng cũng bằng chính cái sức nóng ấy, mặt Trời lại thiêu đốt chúng thành tro bụi. / .

Bản dịch :  Nguyễn Văn Chương  

(Chapter 5 – The Tempest

   THE BROKEN WINGS

          Kahlil Gibran)

_________________________

Chú thích :

(*). Tơ-roa ( Troie ), đọc theo âm tiếng Pháp, tiếng Anh viết là Troy. Tại đây đã xảy ra cuộc chiến khốc liệt và dai dẳng suốt trong 10 năm, giữa quân xâm lược Hy-lạp và quân thủ thành Troie. Sau cùng, Ulysse, một tướng Hy-lạp dùng diệu kế con ngựa gỗ, mới hạ được thành. Trong sách truyện, người ta thường nói đến thành Tơ-roa và con Ngựa gỗ là vậy.   

(**). Alexandria : Thành phố cảng lớn của Ai-cập, cho xây dựng bởi Alexandre Đại đế ( Alexander The Great ) vào năm 332 trước Công nguyên. Thành phố Alexandria là trung tâm Văn hóa nổi tiếng có nhiều thư viện với nhiều sách quý.  

(***).  Kiếp hồng nhan có mong manh,

         Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.                                       

                              Nguyễn-Du ( Truyện Kiều )   

 

Có 5 bình luận về CƠN PHONG BA (The Tempest)

  1. Hoành Châu nói:

    Bài dịch hay tuyệt , em đã đọc tác phẩm này lâu lắm rồi ,  giờ có dịp đọc lại  qua  kỷ năng  dịch của Thầy ,,, em  vẫn còn thấy thích hơn nữa  . Ngẫm lại hai câu thơ sau đây  mà thương cho kiếp má hồng ,,,khi,,,,”  tình chỉ đẹp  lúc tình dang dở ,,,” hoặc tính vô thường trong  phận người:
    ,,,” Kiếp hồng nhan có mong manh
    Nửa chừng xuân thoắt  gãy  cành thiên hương  .NGUYỄN DU (Truyện Kiều)
    Chúc THẦY  được  dồi dào  sức khỏe để nghiên cứu và  thông dịch những áng văn hay cho bạn đọc  xa gần  ! .Kính Thầy ,                             Em Hoành Châu (Gia đình C  )

  2. VÕ THỊ LÀI nói:

    Thầy kính mến ! Bài dịch của thầy rất hấp dẫn ,gợi tò mò người xem ,nhìn thấy bài là biết thầy còn khỏe mạnh. Chúng em cám ơn thầy đã cho chúng em mở thêm tầm mắt hiểu biết thêm về xứ Ai Cặp . Kính chúc thầy vui khỏe .                                                                                                                                                                                               Học trò TPH của Thầy niên khóa 72 .

  3. Nguyễn Thị Hạnh nói:

    Mối tình trong sáng tươi đẹp mà ngang trái chia ly.

    Mắt yếu mà em cố xem vì hay quá thầy ạ!

  4. Cuộc tình thơ mộng của đôi trẻ mới chớm nở thì cơn phong ba ở đâu chợt tới. Cảnh huống này không hiểu ngày nay có còn không nhưng ngày xưa ở VN thì chắc cũng không phải là hiếm có, khi mà những người có quyền lực thường dùng ảnh hưởng của mình để áp chế những người yếu thế hầu đạt được mục đích cũng như điều lợi cho mình. Cám ơn thầy Chương đã bỏ nhiều thời giờ trong việc dịch thuật để người đọc thưởng thức được tất cả cái hay trong lời văn cũng như cách diễn đạt đầy chất thơ của Gibran.

  5. Hồ An Nhiên nói:

    Kính thầy
    Cách đây 1 tháng có người nhờ em xin số ĐT của thầy , em có nhờ vài nơi nhưng chư a được . Hôm nay tình cờ vào đây , thấy bài dịch của thầy . Em xin gởi tin này cho thầy . Chúc thầy dồi dào sức khoẻ

Trả lời Nguyễn Thị Hạnh Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác