Những nhân vật của tôi
Phố Tịnh thương mến, Có nhiều khi tôi thấy mình nhớ quay quắt về những ngày tháng ở cồn phố tịnh ấy. Nhân vật của tôi có thể là một cô bé hiền lành đến độ nhút nhát tên là Kiêm Hà của lớp 7 năm ấy. Kiêm Hà và các bạn cùng lớp thật là dễ thương vì sự hồn nhiên ngây thơ trong một khung cảnh cuộc sống xô bồ bát nháo chung quanh. Một hôm, tôi nhìn những đôi mắt tròn như những hòn bi ấy mà hát thành bài “Rồi một mai” theo thể ballad, trong đó có những câu thế này:
Rồi một mai em sẽ lớn khôn, một sớm mai tiếng thở chợt dài
Hàng phượng đìu hiu trong sân, bao năm qua đi lá vẫn rơi vàng
Bài vở ngày nào có nói gì đâu những đắng cay phận người
Em bước ra đi bơ vơ, có nghĩa chi đâu sách đèn…
(“Rồi một mai” – Phượng trong thành phố ấy (Phố Tịnh 1972)
Cũng những đôi mắt bi ve của Kiêm Hà và các bạn đã ngước trông lên hàng phượng hai bên lối sân để sống mãi trong tôi màu xanh tư mã của những tà áo dài trắng học trò những ngày cuối năm học đầu tiên ấy.
Trên áo em hoa cài nụ thắm hôm nào còn ngượng ngùng thả gió đưa bay
Đã có những chiều nhạc vàng réo rắt với hàng phượng hồng
Đã có những sớm mai nào áo xanh…
(“Phượng còn xanh” – Phượng trong thành phố ấy (Phố Tịnh 1972)
Nếu Kiêm Hà là nhân vật của sự ngây thơ trong sáng tuổi học trò thì Hồng Phúc và Cúc Hoa là hiện thân sự nát nhàu của tuổi trẻ giữa khung cảnh thị trấn vắng lặng buồn hiu nhưng nhiều sóng ngầm. Cúc Hoa chưa hề học lớp Quốc Văn của tôi, nhưng tôi thấy lạ là thỉnh thoảng em ghé lại nhà trọ của tôi chuyện trò những chuyện vui buồn trong ngày. Em kể cho tôi đủ thứ chuyện tâm tình của tuổi mới lớn, những buồn giận cùng những hân hoan của nhóm bạn học cùng lớp em trong ngày. Rồi bẵng đi rất lâu, không thấy em ghé lại nhà tôi như trước. Ngày 30/4, em lúc ấy đang học Lớp 11 thì bỏ ngang, sang Cần Thơ công tác trong Phòng Văn Hoá Thông Tin tại thành phố Cần Thơ.
Tình cờ một hôm, tôi lang thang buổi chiều trên phố vắng tìm quán trọ thì nghe tiếng người gọi tên mình đâu đó. Cúc Hoa đang từ sở làm trên đường về nhà. Em mời tôi ghé qua nhà. Căn nhà lá xơ xác trong một ngõ hẻm trông thật tạm bợ, tư bề gió lộng. Chúng tôi hỏi thăm nhau về cuộc sống từ sau ngày dâu bể ấy. Do mối quan hệ gia đình, sau ngày 30/4, Cúc Hoa bỏ học để đi làm biên tập đài phát thanh địa phương. Cúc Hoa tâm sự rằng em thấy nghẽn lối ra sau ba bốn năm làm việc với những khẩu hiệu, những bài viết cổ động lòng người đến nhàm chán. Lại thêm một lần gãy đổ hôn nhân vì người chồng trẻ qua đời đường đột. Tôi nhìn vào mắt Cúc Hoa và nhận ra vẻ mệt mỏi quá sớm của một người tuổi trẻ. Tôi nói với Cúc Hoa rằng tôi xót xa cho những vốn liếng nhân văn mà Tống Phước Hiệp cho em bây giờ trở nên lãng phí quá, hãy quay trở về khung cảnh nhà trường, tìm lại môi trường thân thiết với con người hiền lành. Vốn đau khổ của em như thế đã đủ làm dậy chất men tâm hồn để sống với những ngày tháng lâu dài về sau. Chia tay Cúc Hoa lần ấy tôi không gặp lại em lần nào. Bây giờ em ở đâu, Cúc Hoa thương mến? Bao nhiêu năm qua rồi, em có được sống thoả những ước mơ của đời mình thời tuổi trẻ không, hay vẫn kẹt vướng trong ngõ cụt của đời mình?
Sau cuộc biến tang thương, tôi trải qua những năm tháng lang thang vì bị vây khổn. Tôi gặp lại Hân Nhi trong một ngày tàn tạ như thế. Lúc ấy em đang chờ được xếp công tác sau khi học xong đại học sư phạm. Hân Nhi là một học sinh lớp C đầu tiên của tôi tại Tống Phước Hiệp. Em và các bạn cùng lớp đã từng chia sẻ với tôi những ngày tháng sôi động của tuổi trẻ. Từ những chuyện nhỏ như một đề thi in ronéo phát ra tại hôm thi môn Quốc Văn, đến những mẩu tâm tình giữa giờ hoặc những giờ gọi là sinh hoạt hiệu đoàn đậm đặc những bàn luận về mọi thứ chuyện trên đời. Đó là một khung cảnh gia đình trong đó tôi sống cùng học trò những thao thức, những ước mơ của một thế hệ tuổi trẻ. Sau năm học đầu tiên ấy, tôi không còn theo lớp C này nữa. Quan hệ gắn bó giữa thầy trò chúng tôi về sau chỉ đậm nét nhất là qua việc thực hiện một Phòng Triển Lãm về bản sắc văn hoá Việt tại miệt vườn. Lớp C đảm nhận may một loạt y phục truyền thống của người Việt từ thời kì Đại Việt về sau. (Tôi phải cất đi thời kì Văn Lang vì ngại có người dèm pha rằng tôi báng bổ tiền nhân, cho ông bà mình đóng khố, đội mũ hình lông chim…) Trong một ngày hội tết linh đình của trường năm 1972 ấy, phòng triển lãm thực sự là tinh hoa của trí sáng tạo tuổi trẻ Tống Phước Hiệp. Niềm say mê hào hứng ấy thể hiện qua nguyên một phòng dành cho bích báo và báo tập do học sinh các lớp thực hiện. Phòng triển lãm các nét đặc sắc của miệt vườn qua các hạng mục triển lãm về các giống lúa Vĩnh Long, các loại gỗ Vĩnh Long, cây trái miệt vườn. Và phòng triển lãm y phục Việt. Những ngày tháng sôi động ấy đáng tự hào lắm, vì nó là công trình của trí tuệ và nhiệt tâm tuổi trẻ Tống Phước Hiệp. Hân Nhi của tôi chắc cũng đem theo niềm tự hào ấy vào trường sư phạm ba năm sau đó.
Gặp lại nhau trong tình cảnh cùng đường, Hân Nhi cho tôi nghe nỗi hoang mang hồi hộp của em trong những ngày chờ quyết định bổ dụng sau khi mãn khoá học. Hồi hộp chỉ là vì cái lí lịch thôi, chứ khả năng và nhiệt huyết của em thì tôi không nghi ngờ gì. Hân Nhi cho biết là ba em, một sĩ quan cảnh sát, lúc ấy còn đang trong trại cải tạo ở một nơi rất xa. Lớn lên giữa những đổ vỡ phân li, cô bé không dám mơ nghĩ về tương lai. Tôi và Hân Nhi ngồi rất lâu bên li cà phê bên đường, cạnh trường đại học sư phạm. Đôi khi cười với nhau như chế giễu những ảo mộng cuộc đời của nhau. Từ hôm đó, tôi gặp Hân Nhi thường ngày. Sau những thảng thốt buổi đầu, những ngày sau đó Hân Nhi chủ động nhắc lại tôi nghe những dư âm ngày tháng cũ ở trường Tống Phước Hiệp. Em kể tôi nghe về những người bạn học năm xưa, giờ đây tan tác mọi phương, vốn chữ nghĩa văn chương không vực nổi nhiều phận người. Tôi nghĩ đến Cúc Hoa với nỗi cảm thương tương tự.
Tôi nghe Hân Nhi kể chuyện thật lưu loát, đôi khi hăng say nhưng vẫn đằm thắm. Mỗi lần gặp nhau tôi lại có thêm một mảnh ghép về tâm cảnh cô bé học trò cũ. Hân Nhi vẫn là cô bé suy nghĩ sắc và nhanh, vẫn lạc quan yêu đời như ngày xưa cho dẫu ngày hôm nay có bấp bênh và nhiều buồn lo. Hân Nhi còn đủ sức mạnh để lo giùm tôi về cái tương lai đen ngòm của anh giáo trẻ đang đi bên em. Rất tự nhiên, thầy trò chúng tôi chia sớt cho nhau nỗi ngậm ngùi cùng niềm hân hoan. Hai thầy trò như cùng sống lại tâm thế tự do mà ngày trước tôi có lần nói đến trong một giờ học. Tôi không bao giờ quên những giờ phút đẹp đẽ ấy, vì nó cho tôi lại những hào hứng mà cuộc sống chung quanh đã khiến nó khuất lấp. Những ngày ấy, tôi thấy không khí nồng ấm của những giờ học Quốc Văn tràn về lại trong mình. Hai thầy trò giờ đây đang sống với những tâm cảnh lung linh khác nhau của cuộc đời thực, chứ không phải chỉ là những trang sách vở xa xôi, huyền hoặc. Hiện thực bi thương có thể nuôi lớn tâm tình con người chứ có phải đâu chỉ là vùi dập, cùng khốn. Tôi nghĩ đến tâm sự của một người xưa: “Cùng một lứa bên trời lận đận, Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau”. Trước ngày em chia tay lên đường nhận nhiệm sở, chúng tôi gặp lại nhau để trao gửi những nguyện ước tốt lành cho những ngày sắp tới. Em nói đến một địa danh Chợ Bưng khỉ ho cò gáy nào đó, như thể một chỗ dựa mong manh cho thân gái dặm trường của một thời bất trắc. Tôi dõi theo bóng em mất hút dần phía xa, lòng thấy xót.
Bây giờ Hân Nhi đang ở đâu? Chợ Bưng hay Vĩnh Long? Hay một địa danh xa lạ nào ở xứ người? Những người muôn năm cũ của tôi cũng theo dòng thác lũ của cuộc sống mà phiêu dạt, mà lạc mất nhau đã hơn ba mươi năm. Lòng tôi vẫn thường lẩn khuất theo ngọn mây tần, bay về cố xứ xa khơi, hỏi thăm những nhân vật của tôi một thời ngắn ngủi nhưng mãi mãi thường còn.
Có một nhân vật của tôi đến một lần thật ngắn ngủi trong thời gian tôi về Tống Phước Hiệp, nhưng sẽ ở lại bền lâu trong tôi mãi về sau này. Năm 1972 bác Nguyễn Minh Tâm đã già lắm, dễ chừng trên dưới 70. Tuy vậy gương mặt bác uôn quắc thước, hồng nhuận. Cặp mắt lắm khi ánh lên nét tinh nhanh. Nhờ duyên chữ nghĩa, nhóm bạn chúng tôi chung nhau xuất bản tập san văn hoá Vượt Thoát. Tôi nghe tên bác từ khi còn ở Sài Gòn, qua những bản dịch cẩn trọng và lưu loát một số tác phẩm của Krishnamurti. Năm đó, anh em chúng tôi thường gặp nhau đàm đạo những đề tài về đạo, về thiền tại cái cốc nhỏ nhắn bác dựng trong khu vườn rộng thênh thang sau nhà. Sau này, hai bác cháu thường gặp nhau chỉ để nói chuyện về buông xả, về cái nhìn sự vật quen thuộc quanh ta lúc nào cũng mới tinh như gặp nhau lần thứ nhất. Có nhiều hôm hai bác cháu, một già một trẻ, ngồi bên chén trà, yên lặng chẳng nói gì, nhưng thật là sảng khoái, thanh bình. Sau ngày 30/04, bác Tâm có một thời gian bị tập trung. Tôi tin là bác không bị tù túng vì những rào chắn, những bức tường của thế tục. Bác Tâm cho tôi sự vững chãi tâm hồn, về lòng không sợ và sự yêu cái đẹp. Tôi sống sót qua cơn sóng gió mười năm là nhờ những vẻ đẹp mà tôi nhận được từ những nhân vật của tôi đấy, Phố Tịnh ơi.
Nếu đời mình là một vở kịch dài thì những người quanh tôi là những nhân vật đã góp phần làm nên vở kịch đời ấy. Năm năm của một đời người không phải là dài, nhưng năm năm ấy là những “khúc dạo đầu của một giấc mơ một đời người” -theo cách nói của ai đó khi nghĩ vế Hải Phòng của một Văn Cao. Tôi rời trường, xa quê miệt vườn nhưng lòng không hề nguôi quên những nhân vật một thời. Những nhân vật của tôi thoắt biến thoắt hiện trong những chớp mắt nhìn lại như thế.
Hẹn em thư sau,
Đoàn Xuân Kiên
Bạn đọc Phố Tịnh mong thư thầy Đoàn Xuân Kiên gửi tiếp, thưa Thầy
Thầy có trí nhớ rất tốt ,nhớ nhiều nhân vật mà thầy đã gặp , chúng em đợi đọc tiếp kỳ sau .
Xin cảm ơn những lời nhận xét của mọi người. Tôi sẽ cố gắng hoàn tất loạt “Thư về Phố Tịnh” để khơi lại kí ức của chúng ta (không phải chỉ riêng tôi đâu) về những ngày tháng đẹp của TPH. Mong sẽ được đọc những kỉ niệm khác của tất cả nhưng thầy cô giáo và các bạn cựu học sinh. Mấy năm nay tôi đã bắt liên lạc với một số cựu học sinh và đề nghị các bạn viết lại về Hội Chợ Tết 1972 và tìm lại để phổ biến hai tập Kỉ Yếu quý giá của trường TPH, một tập in năm 1974, một tập in trước đó mấy năm. Có ai còn giữ được thì nên làm khó anh chủ trang… trại này cho in lại trên trang… trại TPH thì tuyệt vời.
Thưa thầy,
Em nhớ bài hát Phượng còn xanh của thầy ngày đó có lời…mai rồi mốt em đi về,ai nhớ thương cây phượng buồn,rồi một sớm có mưa mau,trên lối xưa phượng còn xanh…em còn nhớ hồi đó em nói mấy câu ca là bấy nhiêu câu hỏi..thầy ngưng đàn và chỉ nói một tiếng im!!
Kính chúc thầy sức khoẻ,an khang.
Hương Lan hỏi nhiều dữ vậy sao? HL biết không, thầy LVKiệt hỏi hoài: sao phượng lại xanh hè? Cho tới khi thầy mất, thầy vẫn không chịu phượng xanh. Lạ quá, tôi thấy nó xanh ngay từ khi mới nhìn qua lối sân đó…
Dạ, thầy Kiệt nói nếu thầy Kiên thêm cái chấm hỏi thì thầy”ưng”, còn như thầy Kiên cứ phượng còn xanh thì thầy Kiệt “không ưng!”
Đã hơn bốn mươi năm chưa lần gặp lại thầy,nhưng em nghĩ em vẫn sẽ nhận ra thầy,nếu lần nào đó gặp lại,thưa thầy.
Nói cho vui vậy thôi chứ không nên gò bó cảm hứng nghệ thuật trong những khuôn khổ phi-nghệ-thuật. Mà HL hay các bạn cũ có còn giữ được bài hát PCX hồi hè 1971 đó không? Tôi cũng không giữ được bản in ronéo đó. Thăm các bạn cũ của HL.