DIỄN VĂN TƯỞNG NIỆM ABRAHAM LINCOLN
Frederick Douglass sinh ra trong cảnh nô lệ với tên đầy đủ là Frederick Augustus Washington Bailey, gần Easton, quận Talbot, bang Maryland. Ông không biết chính xác ngày sinh của mình, nhưng biết rằng năm sinh là 1817 hoặc 1818. Khi còn nhỏ, ông được gửi đến Baltimore để làm người hầu trong nhà, tại đó ông học đọc và viết nhờ sự giúp đỡ của vợ chủ.
Frederick Douglass
Năm 1838, ông trốn thoát khỏi chế độ nô lệ và đến thành phố New York, nơi ông kết hôn với Anna Murray, một phụ nữ da đen tự do mà ông đã quen ở Baltimore. Ngay sau đó, ông đổi tên thành Frederick Douglass.
Năm 1841, ông phát biểu tại hội nghị của Hiệp hội Chống Nô lệ Massachusetts ở Nantucket, và bài diễn thuyết của ông đã gây ấn tượng mạnh đến mức hội này lập tức mời ông làm đại diện. Ông là một diễn giả xuất sắc đến nỗi nhiều người nghi ngờ rằng ông từng là nô lệ thật. Để chứng minh điều đó, ông viết cuốn “Narrative of the Life of Frederick Douglass, an American Slave” (1845) – Tự truyện về cuộc đời của Frederick Douglass, một người nô lệ Mỹ.
Trong Cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, ông hỗ trợ tuyển mộ lính da màu cho Trung đoàn 54 và 55 Massachusetts, đồng thời liên tục đấu tranh cho việc giải phóng nô lệ. Sau chiến tranh, ông tích cực bảo vệ quyền lợi của người da đen tự do, cũng như quyền bầu cử của phụ nữ, ủng hộ Elizabeth Cady Stanton trong hội nghị phụ nữ đầu tiên năm 1848 nhằm thông qua Tuyên ngôn về Tình cảm (The Declaration of Sentiments).
Ông là người Mỹ gốc Phi đầu tiên được đề cử làm Tổng thống, vào năm 1888. Douglass cũng được nhắc đến trong các tài liệu nghiên cứu về Chủ nghĩa Hiện thực và Văn học Nữ quyền.
Trong những năm cuối đời, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ như Thư ký Ủy ban Santo Domingo, Cảnh trưởng và người ghi công chứng của Đặc khu Columbia, và Đại sứ Hoa Kỳ tại Haiti.
Những tác phẩm tự truyện khác của ông gồm có:
- My Bondage and My Freedom (1855) – “Xiềng xích và Tự do của tôi”,
- Life and Times of Frederick Douglass (1881) – “Cuộc đời và Thời đại của Frederick Douglass”,
- và bài tiểu luận My Escape from Slavery (1881) – “Cuộc trốn thoát khỏi chế độ nô lệ của tôi”.
Frederick Douglass qua đời năm 1895.
* * *
Diễn văn tưởng niệm Abraham Lincoln
Ngày 14 tháng 4 năm 1876
Đọc tại buổi khánh thành Đài tưởng niệm Người Giải phóng (The Freedmen’s Monument) ở Công viên Lincoln, Washington, D.C.
Những người bạn và đồng bào thân mến:
Tôi chân thành chúc mừng các bạn về mục đích cao quý đã quy tụ đông đảo và đầy nhiệt huyết chúng ta hôm nay. Dịp này, trên nhiều phương diện, thật đặc biệt. Những con người khôn ngoan và sâu sắc trong chủng tộc chúng ta – những người sẽ đến sau, sẽ học hỏi bài học từ lịch sử của chúng ta tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, sẽ nhìn lại chặng đường dài, ảm đạm mà chúng ta đã vượt qua, sẽ đếm từng mắt xích trong chuỗi sự kiện vĩ đại đã đưa chúng ta đến vị thế hiện nay – họ sẽ ghi lại ngày này; họ sẽ nhớ đến và nhắc về nó với niềm kiêu hãnh và mãn nguyện.
Tôi cũng chúc mừng các bạn về những hoàn cảnh vô cùng thuận lợi mà chúng ta được gặp gỡ hôm nay. Chúng thật cao quý, truyền cảm hứng và hiếm có. Chính những điều ấy mang lại vẻ đẹp, vinh quang và ý nghĩa cho mục đích buổi lễ này. Không nơi nào khác trên đất nước rộng lớn này – với vô số thành phố, sự giàu có không kể xiết và lãnh thổ bao la trải dài từ biển này sang biển khác – lại có thể tạo nên những điều kiện thuận lợi hơn cho một dịp trọng đại như thế này.
Hôm nay, chúng ta đang đứng tại trung tâm của quốc gia, để thực hiện một hành động gần như mang tính quốc gia – một hành động sẽ đi vào lịch sử; và chúng ta đang ở nơi mà từng nhịp đập của trái tim dân tộc đều có thể được nghe, được cảm nhận và được đồng vọng. Hàng ngàn đường dây điện tín, mang tư tưởng và được chắp cánh bằng tia chớp, đang kết nối chúng ta ngay tức khắc với những người trung thành và chân chính khắp đất nước.
Hiếm có sự kiện nào có thể minh chứng rõ ràng hơn cho sự thay đổi sâu sắc và kỳ diệu trong thân phận của dân tộc chúng ta bằng chính sự hiện diện của chúng ta ở đây hôm nay. Dù buổi lễ này hoàn toàn vô hại, đẹp đẽ, chính đáng và đáng khen ngợi, tôi không thể quên rằng chỉ hai mươi năm trước, một buổi tụ họp như thế này sẽ không thể được dung thứ. Tinh thần nô lệ và man rợ, vốn vẫn còn len lỏi trong những miền tối tăm, xa xôi của đất nước, hẳn đã biến việc chúng ta tụ tập nơi đây thành tín hiệu và cái cớ để trút xuống chúng ta mọi cơn thịnh nộ và bạo lực. Việc chúng ta được đứng đây trong hòa bình hôm nay là một lời ca ngợi và một minh chứng cho nền văn minh Hoa Kỳ, đồng thời là lời tiên đoán cho ánh sáng và sự tiến bộ lớn hơn của dân tộc trong tương lai.
Tôi nhắc lại quá khứ không phải để gieo oán hận – bởi hôm nay không phải ngày cho hận thù – mà để làm nổi bật hơn sự thay đổi rực rỡ đã đến với cả những người da trắng và chúng ta, và để chúc mừng tất cả về sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại: giữa kỷ nguyên nô lệ cũ, với muôn vàn tội ác giáng xuống cả hai chủng tộc, và kỷ nguyên tự do mới, với ngàn ân phúc cho cả hai bên. Nhìn lại quá khứ, hiện tại và tương lai – với lịch sử dài và tăm tối của kiếp nô lệ sau lưng, và với tự do, tiến bộ, khai sáng trước mặt – tôi lại một lần nữa chúc mừng các bạn về ngày và giờ tốt lành này.
Những người bạn và đồng bào thân mến, câu chuyện về sự hiện diện của chúng ta nơi đây thật ngắn gọn và dễ hiểu. Chúng ta đang ở Đặc khu Columbia, ngay thành phố Washington – điểm sáng rực rỡ nhất trên bản đồ nước Mỹ; một thành phố vừa được tái sinh, đẹp đẽ trong cả hình thể lẫn tinh thần. Chúng ta đang ở nơi mà những con người tài giỏi và ưu tú nhất của đất nước được gửi đến để hoạch định chính sách, lập pháp và định hình vận mệnh của nền Cộng hòa; chúng ta đang đứng dưới bóng những cột trụ uy nghi và mái vòm tráng lệ của Điện Capitol; chúng ta đang ở giữa mùa xuân, khi mặt đất được khoác tấm áo hoa lá tươi non – nhà thờ của chúng ta là thiên nhiên, và tín đồ là mọi tầng lớp, màu da và địa vị con người.
Nói ngắn gọn, chúng ta ở đây để bày tỏ – bằng những nghi thức trang trọng nhất mà chúng ta có thể – lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao to lớn, cao quý và vĩ đại mà Abraham Lincoln đã dành cho chúng ta, cho chủng tộc chúng ta, cho đất nước này và cho cả thế giới.
Tình cảm đưa chúng ta đến đây hôm nay là một trong những cảm xúc cao cả nhất có thể làm rung động trái tim con người. Chính tình cảm ấy đã tôn vinh những đỉnh cao của mọi quốc gia văn minh bằng những công trình nghệ thuật tráng lệ và bất tử, nhằm khắc ghi nhân cách và lưu truyền ký ức về những con người vĩ đại. Chính tình cảm ấy từ năm này sang năm khác đã kết hoa tươi thắm lên mộ phần những người lính trung thành, can đảm và yêu nước – những người đã ngã xuống để bảo vệ Liên bang và tự do. Chính tình cảm ấy của lòng biết ơn và tôn vinh đã khiến đồi Arlington kia vang lên biết bao lời điếu hùng hồn và những khúc ca đầy xúc cảm; và đó là tình cảm sẽ còn sống mãi chừng nào nền Cộng hòa này còn tồn tại.
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc chúng ta – và trong lịch sử của toàn dân Hoa Kỳ – chúng ta cùng nhau tham dự một nghi lễ cao quý như thế này, hiển nhiên và công khai hòa vào truyền thống lâu đời ấy. Mọi điều “đầu tiên” đều đáng quan tâm, và đây là một trong những điều “đầu tiên” của chúng ta. Đây là lần đầu tiên chúng ta, bằng hình thức và nghi lễ này, bày tỏ lòng tôn vinh một vị anh hùng người Mỹ – dù ông xứng đáng và lừng lẫy đến đâu. Tôi muốn mọi người ghi nhớ điều đó; hãy để nó được kể lại khắp đất nước; hãy để mọi người, dù khinh miệt hay tôn trọng chúng ta, đều biết rằng – ngay tại đây, trong tinh thần tự do, trung thành và biết ơn – chúng ta, những người da màu mới được giải phóng, đang cận kề kỷ niệm trăm năm đầu tiên của nền Cộng hòa này, đã trang trọng khánh thành và dâng tặng tượng đài tưởng niệm Abraham Lincoln – để thế hệ hôm nay và mai sau, khi nhìn lên hình tượng ấy, sẽ hiểu phần nào về nhân cách cao cả và những công lao vĩ đại của ông, vị tổng thống tử đạo đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Đồng bào thân mến,
Trong tất cả những gì chúng ta đã nói và làm hôm nay – cũng như những gì chúng ta có thể nói và làm sau này – chúng ta hoàn toàn không có chút kiêu căng hay tự phụ nào. Chúng ta không hề đòi hỏi cho mình một vị thế đặc biệt hay một lòng tôn kính cao hơn đối với nhân cách, lịch sử và ký ức của danh nhân vĩ đại mà hôm nay chúng ta khánh thành tượng đài để tưởng niệm.
Chúng ta hiểu rất rõ mối tương quan giữa Abraham Lincoln với chính chúng ta, cũng như với người da trắng của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Sự thật luôn là điều đúng đắn và đẹp đẽ, ở mọi thời điểm và mọi nơi chốn – và nó càng đúng đắn, càng đẹp đẽ hơn khi ta nói về một con người vĩ đại của công chúng, người mà tấm gương của ông sẽ còn được tôn vinh và noi theo lâu dài sau khi ông đã đi vào cõi vĩnh hằng, vào miền im lặng của vĩnh cửu.
Phải thừa nhận – và chính sự thật buộc tôi phải thừa nhận điều đó – rằng, ngay tại nơi này, trước tượng đài mà chúng ta dựng lên để tưởng niệm ông, Abraham Lincoln, theo nghĩa trọn vẹn nhất của từ ấy, không phải là “người của chúng ta”, cũng không phải là “hình mẫu” của chúng ta. Trong lợi ích, trong các mối giao du, trong cách tư duy và trong thành kiến, ông là một người da trắng.
Ông là tổng thống của người da trắng, toàn tâm toàn ý vì phúc lợi của người da trắng. Trong những năm đầu nhiệm kỳ, ông sẵn sàng – và nếu cần, sẵn lòng – trì hoãn, thậm chí hi sinh quyền lợi của người da màu để bảo vệ quyền lợi của người da trắng tại đất nước này. Trong giáo dục và tình cảm, ông là một người Mỹ trong số những người Mỹ nhất. Ông bước lên chiếc ghế tổng thống chỉ với một nguyên tắc duy nhất: phản đối việc mở rộng chế độ nô lệ.
Lý lẽ của ông trong chính sách ấy đều bắt nguồn từ lòng yêu nước và sự tận tụy đối với quyền lợi của chủng tộc mình. Để bảo vệ, duy trì và kéo dài chế độ nô lệ ở các bang nơi nó đang tồn tại, Abraham Lincoln sẵn sàng, không kém bất kỳ tổng thống nào trước ông, rút gươm của quốc gia. Ông sẵn lòng thi hành mọi điều khoản trong Hiến pháp Hoa Kỳ mà người ta cho là đảm bảo cho chế độ nô lệ trong phạm vi các bang nô lệ. Ông sẵn lòng truy đuổi, bắt lại và trao trả những nô lệ bỏ trốn về cho chủ của họ; sẵn sàng đàn áp những cuộc nổi dậy của nô lệ khát khao tự do – ngay cả khi chính “ông chủ tội lỗi” của họ đã cầm vũ khí chống lại chính phủ.
Chủng tộc mà chúng ta thuộc về không phải là đối tượng đặc biệt trong sự quan tâm của ông. Biết rõ điều này, tôi xin nhường cho các bạn – những đồng bào da trắng – quyền được tôn thờ ông một cách trọn vẹn và chính đáng hơn. Từ đầu đến cuối, các bạn và con cháu các bạn mới là đối tượng của tình cảm sâu đậm và nỗi băn khoăn thiết tha nhất của ông. Các bạn là con ruột của Abraham Lincoln; chúng tôi, cùng lắm, chỉ là con riêng, là con nuôi, là những đứa con của hoàn cảnh và nhu cầu.
Vì vậy, các bạn mới là những người có quyền ca ngợi ông, gìn giữ và lưu truyền ký ức của ông, nhân rộng tượng đài của ông, treo chân dung ông trên tường nhà mình, và khuyên bảo thế hệ mai sau noi theo gương ông — bởi đối với các bạn, ông là một người bạn, một ân nhân vĩ đại và rạng ngời.
Chúng tôi không đến đây để thay thế các bạn trước bàn thờ ông. Ngược lại, chúng tôi khuyên các bạn hãy dựng tượng đài ông thật cao, hãy làm chúng bằng những vật liệu quý nhất, bằng tay nghề tinh xảo nhất; hãy để hình khối của chúng hoàn mỹ và cân xứng, chân tượng đặt trên nền đá vững chắc, và đỉnh tượng vươn lên tận bầu trời xanh bất biến, để chúng tồn tại mãi mãi!
Nhưng, trong khi các bạn – với sự giàu có dồi dào và lòng yêu nước chân chính – làm tất cả những điều ấy, xin các bạn đừng khinh thường lễ vật nhỏ bé mà hôm nay chúng tôi dâng hiến, bởi lẽ nếu Abraham Lincoln đã cứu cho các bạn một đất nước, thì ông cũng đã giải thoát cho chúng tôi khỏi xiềng xích nô lệ – một cảnh ngộ mà, theo lời Jefferson, “chỉ một giờ phải chịu còn tồi tệ hơn hàng thế kỷ áp bức mà cha ông các bạn đã nổi dậy để chống lại.”
Đồng bào thân mến,
Lòng nhiệt thành và sự tận tụy của chúng ta hôm nay không phải là một cảm xúc bộc phát nhất thời. Cái tên Abraham Lincoln đã từng là niềm thân thương và gần gũi với trái tim chúng ta trong những giờ phút đen tối và nguy hiểm nhất của Cộng hòa.
Chúng ta chưa bao giờ hổ thẹn vì ông – không phải khi ông bị bao phủ bởi mây mù của nghi ngờ và thất bại, cũng không phải khi ông được đội vương miện chiến thắng, danh dự và vinh quang. Niềm tin của chúng ta vào ông đã nhiều lần bị thử thách đến tột cùng, nhưng chưa bao giờ sụp đổ.
Khi ông chần chừ trên núi cao;/ khi ông, một cách lạ lùng, bảo rằng chúng ta là nguyên nhân của cuộc chiến;/khi ông còn lạ lùng hơn nữa mà nói rằng chúng ta phải rời bỏ mảnh đất nơi mình sinh ra/ khi ông từ chối dùng vũ khí của chúng ta để bảo vệ Liên bang;/ khi sau khi chấp nhận cho người da màu nhập ngũ, ông từ chối trả đũa việc họ bị giết và tra tấn trong tay kẻ thù;/ khi ông tuyên bố rằng ông sẽ cứu Liên bang nếu có thể – dù phải giữ lại chế độ nô lệ;/khi ông hủy bỏ Tuyên cáo Giải phóng mà Tướng Fremont đã ban hành;/khi ông từ chối bãi nhiệm viên tướng chỉ huy Quân đội Potomac, người lúc bấy giờ quá bận tâm bảo vệ chế độ nô lệ hơn là dập tắt cuộc nổi loạn – khi chúng ta thấy tất cả những điều ấy, và hơn thế nữa, chúng ta đã đau đớn, choáng váng và bối rối vô cùng. Nhưng trái tim chúng ta vẫn tin tưởng, dù đang tan vỡ và đổ máu.
Và ngay cả khi ấy, niềm tin ấy không phải là một sự mù quáng hay mê tín vô lý. Giữa làn sương mù và rối ren bao quanh ông, giữa cảnh hỗn loạn và hoang mang của thời cuộc, chúng ta vẫn nhìn thấy được Abraham Lincoln trong toàn cảnh của lịch sử, vẫn biết đánh giá ông trong mối tương quan của hoàn cảnh ông phải đối mặt.
Chúng ta không đo lường ông bằng những lời nói rời rạc với những đoàn người thiếu khôn ngoan đến thử thách sự kiên nhẫn của ông; không đánh giá ông qua những sự kiện đơn lẻ bị tách khỏi bối cảnh, cũng không qua những thoáng nhìn không trọn vẹn, bắt gặp trong giây phút bất thường; mà bằng cái nhìn rộng lớn, dưới ánh sáng của logic nghiêm khắc của lịch sử và niềm tin vào sự quan phòng của Thượng Đế, Đấng định đoạt vận mệnh của con người.
Và chúng ta đã đi đến kết luận rằng: giờ phút giải phóng của chúng ta và con người mang sứ mệnh ấy – Abraham Lincoln – đã gặp nhau trong cùng một định mệnh.
Với chúng ta, không còn quan trọng ông đã dùng lời lẽ gì trong từng dịp riêng lẻ; không quan trọng ông hành động nhanh hay chậm; chỉ cần biết rằng Abraham Lincoln là người đứng đầu một phong trào vĩ đại, và hết lòng hòa cùng linh hồn của phong trào ấy – một phong trào mà, theo lẽ tự nhiên, chỉ có thể dừng lại khi chế độ nô lệ bị xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn tại Hoa Kỳ.
Vậy nên, nếu có ai hỏi chúng ta có liên hệ gì với ký ức của Abraham Lincoln, hay Abraham Lincoln có liên hệ gì với chúng ta, thì câu trả lời đã sẵn sàng, đầy đủ và trọn vẹn.
Dù ông yêu Caesar ít hơn Rome, dù Liên bang đối với ông quan trọng hơn tự do hay tương lai của chúng ta, thì dưới sự lãnh đạo khôn ngoan và nhân từ của ông, chúng ta đã thấy mình dần dần được nâng lên từ vực sâu nô lệ đến đỉnh cao của tự do và nhân phẩm.
Dưới sự lãnh đạo của ông – với những chính sách ông tán thành và kiên trì thực thi – chúng ta đã thấy những dấu vết của hàng thế kỷ thành kiến và kỳ thị đang dần mờ đi trên khắp đất nước.
Dưới thời ông, và vào lúc thích hợp nhất mà quốc gia có thể chấp nhận điều kỳ lạ ấy, chúng ta đã thấy những người con và anh em can đảm của mình cởi bỏ giẻ rách nô lệ để khoác lên bộ quân phục xanh của binh sĩ Hoa Kỳ.
Dưới thời ông, hai trăm ngàn người da màu của chúng ta đã đáp lại lời kêu gọi của Abraham Lincoln, mang súng trên vai, ngực gắn huy hiệu đại bàng, bước đi hiên ngang hướng đến tự do và thống nhất dưới lá cờ Tổ quốc.
Dưới thời ông, nước cộng hòa da đen Haiti – vốn bị giới chủ nô căm ghét và ghê sợ – được chính thức công nhận, và vị đại sứ da màu của nước ấy được long trọng tiếp đón tại Washington.
Dưới thời ông, nạn buôn bán nô lệ trong nước – nỗi ô nhục kéo dài của quốc gia – đã bị xóa bỏ, và chế độ nô lệ ở Đặc khu Columbia bị bãi bỏ.
Dưới thời ông, lần đầu tiên luật pháp được thi hành nghiêm khắc đối với nạn buôn bán nô lệ quốc tế, và kẻ buôn nô lệ đầu tiên bị treo cổ như mọi tên cướp biển hay sát nhân khác.
Dưới sự lãnh đạo của ông – với sự giúp sức của vị tướng vĩ đại nhất thời đại – chúng ta đã thấy Liên minh miền Nam, được dựng trên niềm tin rằng chủng tộc chúng ta phải mãi là nô lệ, bị nghiền nát và tan biến theo bốn hướng gió.
Và rồi, trong khoảnh khắc định mệnh, chúng ta thấy Abraham Lincoln – sau khi đã cho giới chủ nô ba tháng để tự cứu lấy hệ thống đáng ghét của họ – đặt bút ký vào bản tuyên ngôn bất tử, mà dù ngôn từ của nó chỉ mang tính đặc thù, nguyên tắc và tác động của nó lại mang tính phổ quát, khiến cho chế độ nô lệ vĩnh viễn không còn chỗ đứng trên đất Hoa Kỳ.
Dù chúng ta phải chờ đợi lâu dài, chúng ta đã thấy tất cả những điều ấy – và còn hơn thế nữa.
Liệu có người da màu nào, hay người da trắng nào yêu chuộng tự do cho mọi người, có thể quên được đêm hôm sau ngày mùng một tháng Giêng năm 1863 – khi cả thế giới chờ xem liệu Abraham Lincoln có giữ đúng lời hứa của mình không? Tôi sẽ không bao giờ quên đêm đáng nhớ ấy, khi ở một thành phố xa xôi, tôi cùng ba nghìn người khác, không ai kém phần hồi hộp hơn ai, cùng chờ đợi trong một buổi họp công cộng tin tức giải phóng mà hôm nay chúng ta vừa được nghe đọc lại. Tôi cũng sẽ không bao giờ quên tiếng reo hò vui sướng, những lời tạ ơn bùng nổ vang dậy khắp không trung khi tia điện tín mang đến cho chúng tôi bản Tuyên ngôn Giải phóng. Trong giờ phút hạnh phúc ấy, chúng tôi quên hết mọi chậm trễ, mọi do dự, quên rằng Tổng thống đã từng cố gắng “mua chuộc” phe ly khai bằng lời hứa sẽ tạm hoãn “tia sét” có thể giáng xuống chế độ nô lệ – và từ đó trở đi, chúng tôi sẵn lòng cho ông tất cả khoảng thời gian, cách diễn đạt và mọi phương tiện chính trị cần thiết để đạt được mục tiêu lớn lao và nhân đạo của tự do và tiến bộ.
Thưa đồng bào, hôm nay chúng ta không cần phải nói dài dòng hay soi xét quá tỉ mỉ về con người vĩ đại và tốt đẹp này, cũng như sứ mệnh cao cả mà ông mang đến thế giới. Mảnh đất ấy đã được cày xới và gặt hái đầy đủ, cả bằng sự thật lẫn trí tưởng tượng, ở đây cũng như ở khắp nơi khác. Bất cứ ai cũng có thể nói những điều đúng về Abraham Lincoln, nhưng chẳng ai có thể nói điều gì mới về ông. Tính cách và hành động của ông được nhân dân Mỹ biết rõ hơn bất kỳ người nào cùng thời. Ông không phải là điều bí ẩn đối với bất kỳ ai từng nhìn thấy hoặc nghe ông nói. Dù ở địa vị cao, người khiêm hạ nhất vẫn có thể đến gần và cảm thấy thân thuộc khi ở bên ông. Dù sâu sắc, ông vẫn trong sáng; dù mạnh mẽ, ông vẫn dịu dàng; dù kiên định trong niềm tin, ông vẫn khoan dung với người bất đồng, và kiên nhẫn chịu đựng những lời chỉ trích. Ngay cả những ai chỉ biết ông qua lời nói công khai cũng vẫn có thể hình dung rõ ràng con người ông. Hình ảnh ông luôn lan tỏa cùng lời ông nói, và ai đọc chúng cũng cảm nhận được con người ông.
Tôi đã nói rằng Tổng thống Lincoln là người da trắng, và ông chia sẻ những định kiến phổ biến của đồng bào mình đối với người da màu. Nhìn lại thời đại ông sống và hoàn cảnh đất nước khi ấy, ta phải thừa nhận rằng chính cảm xúc không mấy thiện cảm đó lại có thể xem là một yếu tố giúp ông đạt được thành công phi thường trong việc tập hợp nhân dân trung thành, chuẩn bị cho cuộc chiến khốc liệt phía trước và đưa đất nước đi qua cơn bão táp ấy một cách an toàn. Sứ mệnh vĩ đại của ông là hoàn thành hai việc: thứ nhất, cứu đất nước khỏi tan rã và diệt vong; thứ hai, giải phóng đất nước khỏi tội ác lớn lao của chế độ nô lệ. Để làm được một trong hai điều đó, hay cả hai, ông cần có sự đồng lòng và hợp tác mạnh mẽ của những người trung thành với Tổ quốc. Không có điều kiện tiên quyết ấy, mọi nỗ lực của ông sẽ vô ích. Nếu ông đặt việc xóa bỏ nô lệ lên trên việc cứu vãn Liên bang, ông chắc chắn sẽ làm mất đi sự ủng hộ của một tầng lớp lớn trong dân chúng và khiến việc chống lại cuộc nổi loạn trở nên bất khả thi. Nhìn từ quan điểm của những người theo chủ nghĩa bãi nô triệt để, ông Lincoln có vẻ chậm chạp, lạnh nhạt và thờ ơ; nhưng nếu xét theo tâm lý và tình thế đất nước mà ông, với tư cách một chính khách, buộc phải cân nhắc, thì ông thật ra đã nhanh chóng, quyết liệt, triệt để và kiên định.
Dù Tổng thống Lincoln chia sẻ thành kiến của người da trắng đối với người da đen, nhưng khỏi cần nói cũng rõ: trong sâu thẳm tâm hồn, ông ghê tởm và căm ghét chế độ nô lệ. Người có thể nói:
“Chúng ta tha thiết hy vọng và fervently cầu nguyện rằng roi vọt chiến tranh khủng
khiếp này sớm chấm dứt; nhưng nếu ý Chúa muốn nó kéo dài cho đến khi toàn bộ
của cải tích lũy qua hai trăm năm nô lệ bị tiêu tan, và mỗi giọt máu rơi vì roi vọt
được đền bằng một giọt máu rơi vì gươm đao – thì những phán xét của Chúa đều
là chân thật và công chính hoàn toàn.”
Người nói được những lời ấy hẳn đã bộc lộ rõ thái độ của mình với chế độ nô lệ. Khi miền Nam còn trung thành, ông sẵn sàng để họ “giữ phần thịt” của mình, vì ông nghĩ rằng điều đó đã được ghi trong giao ước; nhưng vượt quá giới hạn ấy, không một thế lực trần gian nào có thể khiến ông nhượng bộ.
Thưa đồng bào, trong thế gian này, có thể nhiều thứ là thiên vị, bất công, và mơ hồ; nhưng thời gian – thời gian! – là công bằng, chính xác và chắc chắn trong phán xét của nó. Trong thế giới tinh thần cũng như trong thế giới vật chất, thời gian là một người thợ vĩ đại, và thường tạo nên những điều kỳ diệu. Một chính khách trung thực và toàn diện, nhận rõ nhu cầu của đất nước và hết lòng làm tròn bổn phận, dù bị vùi dập và sỉ nhục, vẫn có thể yên tâm phó thác sự nghiệp của mình cho phán quyết lặng lẽ của thời gian. Ít có nhân vật công chúng nào từng bị lên án dữ dội như Abraham Lincoln trong nhiệm kỳ của ông. Ông bị tổn thương ngay trong “nhà của bạn hữu”. Những lời khiển trách giáng xuống ông dồn dập, từ trong lẫn ngoài, từ mọi phía đối lập. Ông bị phe bãi nô công kích; bị chủ nô tấn công; bị những người đòi hòa bình bằng mọi giá công kích; bị những người muốn chiến tranh quyết liệt hơn chỉ trích; bị tố là không làm cho cuộc chiến trở thành chiến tranh giải phóng nô lệ; và rồi lại bị chửi rủa vì đã biến nó thành chiến tranh giải phóng nô lệ!
Nhưng nay, hãy xem sự đổi thay: phán xét của thời đại hiện tại cho rằng, xét trên toàn bộ sự nghiệp và tầm vóc vĩ đại của nhiệm vụ mà ông gánh vác, xem xét các phương tiện và mục tiêu, và nhìn từ đầu đến cuối, hiếm khi Trí tuệ Vô biên lại gửi đến thế gian một con người phù hợp hơn cho sứ mệnh của mình như Abraham Lincoln. Sự sinh ra, rèn luyện và phẩm chất thiên phú – cả về trí tuệ lẫn thể chất – đều đứng về phía ông. Sinh ra và lớn lên giữa những người nghèo hèn, xa lạ với giàu sang, buộc phải đơn độc vật lộn với những gian nan cứng rắn nhất của cuộc đời, từ tuổi thiếu niên đến khi trưởng thành, ông trở nên mạnh mẽ với những đức tính nam nhi và anh hùng cần thiết cho sứ mệnh trọng đại mà nhân dân giao phó.
Hoàn cảnh khắc nghiệt của tuổi thơ – điều có thể khiến những người yếu đuối gục ngã – lại càng tôi luyện cho tinh thần anh hùng của Lincoln thêm sức sống và nghị lực. Ông sẵn sàng với mọi công việc, mọi thử thách. Cái mà những chàng trai khác sợ hãi, ông đón nhận với niềm vui.
“Cuốc, cào, liềm hái, Cuốc chim, rựa, đòn gánh, Móc gặt, liềm cắt lúa, Dụng cụ nào cũng thành.”
Cả ngày dài, ông có thể bổ gỗ nặng trong rừng; nửa đêm lại học ngữ pháp tiếng Anh dưới ánh sáng chập chờn của khúc gỗ thông cháy. Ông thành thạo lao động đất liền với rìu, búa, nêm gỗ; mà cũng khéo léo với chèo, sào, ván và móc tàu trên sông nước. Dù trong chiếc thuyền nhỏ trên sông Mississippi hay bên lò sưởi trong túp lều biên cương, ông vẫn là một người lao động chân chính. Là con trai của lao động, ông gắn bó sâu sắc với những người lao động ở mọi miền trung thành của Tổ quốc. Chính điều đó đã cho ông sức mạnh to lớn trong lòng dân Mỹ, không chỉ giúp ông được chọn làm Tổng thống mà còn giúp ông vững vàng điều hành chính quyền.
Khi ông nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ – một chức vụ vốn đã đòi hỏi năng lực phi thường ngay cả trong hoàn cảnh thuận lợi nhất – Abraham Lincoln lập tức đối diện một cuộc khủng hoảng khủng khiếp. Ông không chỉ phải điều hành chính quyền, mà còn phải quyết định, giữa những hiểm nguy khôn lường, số phận của cả nước. Một cuộc nổi loạn hùng mạnh chặn ngay trước mặt; Liên bang gần như tan rã; đất nước bị xé toạc làm đôi. Quân thù đã tổ chức, được trang bị chính bằng vũ khí mà chính phủ cung cấp để tự vệ. Câu hỏi khổng lồ đặt ra trước ông là: liệu đất nước có sống sót qua cơn khủng hoảng này và hồi sinh, hay bị chia cắt và diệt vong?
Người tiền nhiệm của ông, James Buchanan – kẻ quý tộc – đã chọn buông xuôi, từ chối quyền tự vệ và tự tồn tại của quốc gia – quyền tối thiểu mà ngay cả loài côn trùng nhỏ bé nhất cũng có. Nhưng may thay cho đất nước, cho bạn và cho tôi, phán xét của Buchanan không phải là phán xét của Lincoln – người bình dân. Ông mang lẽ thường được mài giũa trong gian khó để đối diện vấn đề. Ông không do dự, không hoang mang, không nao núng; mà lập tức quyết rằng dù phải trả giá nào, Liên bang cũng phải được bảo toàn. Là một người yêu nước, niềm tin của ông vào lòng yêu nước của nhân dân không bao giờ lay chuyển. Những kẻ hèn nhát nói trước khi ông nhậm chức rằng: “Chúng ta đã thấy vị tổng thống cuối cùng của Hợp Chúng Quốc.” Có kẻ quyền thế tuyên bố: “Hãy để Liên bang tan rã.” Có người nói: “Một Liên bang duy trì bằng gươm giáo thì vô nghĩa.” Có người khác cho rằng: “Cuộc nổi loạn tám triệu dân không thể bị dập tắt.” Nhưng giữa cơn hỗn loạn ấy, giữa tiếng sợ hãi và hoài nghi, Abraham Lincoln vẫn sáng suốt, bình tĩnh, và trung thành với lời thề trước Trời. Không một quyền lực nào trên mặt đất có thể khiến người lái thuyền trung thực, người tiều phu tay chai ấy trốn tránh hoặc phản bội lời thề thiêng liêng ấy. Niềm tin mà Lincoln đặt vào chính mình và vào nhân dân thật lớn lao, nhưng cũng thật sáng suốt và có cơ sở. Ông hiểu người Mỹ hơn chính họ hiểu mình, và niềm tin của ông bắt nguồn từ sự hiểu biết ấy.
Thưa đồng bào, ngày 14 tháng Tư năm 1865 – mà hôm nay là lễ kỷ niệm lần thứ mười một – mãi mãi là một ngày bi tráng trong lịch sử nước Cộng hòa này. Vào buổi tối hôm ấy, khi cuộc nổi loạn đẫm máu đang hấp hối; khi quân đội phiến loạn bị tan tác trước sức mạnh vô địch của Grant và Sherman; khi một đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh bắt đầu cất cao bài ca hòa bình – thì bỗng chốc, nó bị chấn động, sững sờ, và tê liệt bởi tội ác tột cùng của chế độ nô lệ – vụ ám sát Abraham Lincoln. Đó là một tội ác mới, một hành động thuần túy của lòng hận thù đen tối. Nó chẳng phục vụ mục đích nào của phe nổi loạn – nó chỉ là sự thỏa mãn độc ác của một linh hồn hắc ám. Nhưng, cuối cùng, điều ác ấy lại sinh ra điều thiện: nó khiến cả đất nước căm ghét sâu sắc hơn chế độ nô lệ, và yêu thương hơn nữa người giải phóng vĩ đại của mình.
Nếu Abraham Lincoln chết vì một căn bệnh nào đó của kiếp người; nếu ông sống đến tuổi già mà sức khỏe và tiết độ của ông từng hứa hẹn; nếu ông được chứng kiến thành quả cuối cùng của công trình vĩ đại của mình; nếu tấm màn tang của cái chết khép xuống dần dần – chúng ta vẫn sẽ đau buồn sâu sắc và yêu mến gìn giữ tên ông. Nhưng khi ông chết như cách ông đã chết – bởi bàn tay đẫm máu của bạo lực, bị sát hại bất ngờ, không phải vì thù hận cá nhân (bởi ai từng biết Abraham Lincoln đều không thể ghét ông), mà vì lòng trung thành của ông với Liên bang và tự do – thì ông lại càng trở nên thiêng liêng đối với chúng ta, và ký ức về ông sẽ mãi mãi đáng trân quý.
Thưa đồng bào, tôi kết thúc như khi tôi bắt đầu – bằng lời chúc mừng. Hôm nay chúng ta đã làm một việc tốt đẹp cho dân tộc mình. Khi tôn vinh ký ức về người bạn và người giải phóng của chúng ta, chúng ta cũng đang tôn vinh chính mình và các thế hệ mai sau. Chúng ta đã gắn chặt mình với một tên tuổi và danh tiếng bất tử; đồng thời, chúng ta cũng tự bảo vệ mình khỏi lời vu khống độc địa. Khi ai đó nói rằng người da màu vô tâm, không biết tri ân; khi họ ném vào ta lời sỉ nhục của sự vong ân và tìm cách đẩy ta ra khỏi vòng nhân loại – chúng ta có thể bình thản chỉ tay về tượng đài mà hôm nay chúng ta đã dựng lên để tưởng nhớ Abraham Lincoln.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch và giới thiệu
Tháng 11 / 2025
Nguồn: https://americanliterature.com/author/frederick-douglass/essay/oration-in-memory-of-abraham-lincoln
