NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT TIỂU THUYẾT
Năm 1990 của thế kỷ trước, tại Cần Thơ có một cuộc thi sáng tác “Bút ký – Truyện ngắn” do báo Hậu Giang và Hội Văn nghệ địa phương phối hợp tổ chức. Một số tác giả đoạt giải trong cuộc thi nầy hiện nay đang là những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như: Mường Mán, Dạ Ngân… Tuy nhiên, có một điều đặc biệt hơn mà tôi muốn đề cập trong bài bút ký nầy. Đó là, người đoạt giải cao nhất về thể loại truyện ngắn (giải III – không có giải I và II) lại là một người hết sức “không bình thường”. Một người đàn bà lam lũ, ngồi bán từng chai xăng lẻ ven lề đường bụi bặm, kiếm mấy đồng lời nhỏ nhoi, nuôi đàn con năm đứa. Và đứa con tinh thần đầu tay ấy đã được chắt lọc từ một trái tim nhạy cảm với nỗi đau thế sự; một tấm lòng rộng mở, sẻ chia với những bất hạnh dẫy đầy quanh cuộc đời cũng không ít bất hạnh của người viết.
Sau cuộc thi ấy một thời gian, trên báo Đồng Nai số 33, phát hành tháng 6 năm 1992, tác giả Phạm Huy Kỳ trong bài: “CAROLINA một nhà văn nữ danh tiếng rất giàu và thất học” đã có một sự liên hệ khá thú vị: “năm 1991, tại Việt Nam, một bà bán xăng lẻ ở lề đường, lúc chưa có khách thì kê xấp giấy học trò lên cục đá, cục gạch để… sáng tác. Văn bà rất hay, rất hiện đại và bà đoạt giải thưởng văn học nghệ thuật của một tỉnh thuộc miền nam Việt Nam…”. Cũng trong bài nầy, tác giả đã dẫn trích đôi dòng tự sự của nhà văn CAROLINA: “… sinh nhật bé VéRa, con gái tôi. Tôi mơ ước có cho con gái tôi một đôi giầy. Nhưng làm gì tôi có tiền. Mà mọi thứ cũng quá đắt khiến tôi biết, tôi không có cách nào thực hiện được lòng mong ước. Con người là nô lệ của giá sinh hoạt. Tôi tìm thấy một đôi giầy cũ vứt trong một thùng rác. Tôi rửa nó và khâu lại cẩn thận để con tôi có thể mang được…”.
Cần Thơ, những năm 80 của thế kỷ trước. Trong nhà vĩnh biệt của bệnh viện tỉnh, xác một người đàn ông vô thừa nhận đang được chuẩn bị khâm liệm để mang đi hỏa thiêu. Chị hộ lý có trách nhiệm làm công việc cuối cùng nầy hết ra rồi lại vào, cứ tần ngần, do dự. Không phải chị sợ, bởi công việc nầy chị đã làm nhiều lần. Hơn nữa, chị nghĩ rằng cái đáng sợ nhất thuộc về những người còn đang sống chứ không phải ở những thân thể bất động, vô tri giác kia.
Cái làm chị bần thần nghĩ ngợi chính là bộ quần áo còn khá tươm tất của người chết. Bộ đồ ấy nếu giặt sạch sẽ, mang ra chợ trời có thể đổi được vài ký gạo, làm đầy những cái bụng rỗng của đám con ở nhà dăm ba bữa (Chị sợ lắm cái cảm giác trơn tuột, mất hút khi đưa tay khua khoắng thùng đựng gạo trống không! Tai hại thay, cảm giác ấy luôn xuất hiện thường trực trong chị, mật độ dày dặc hơn cả nụ cười, chị lại bắt gặp mới đây thôi, trước khi đi làm). Trong những tháng ngày vất vả chèo chống nuôi đàn con nhỏ dại sau khi người chồng qua đời, đã có không ít lần chị cắn chặt răng, nuốt nước mắt vào lòng, lựa mấy bộ đồ tương đối lành lặn, trong số quần áo vốn đã ít ỏi của mình mang ra chợ trời. May mắn là lúc bấy giờ đồ đạc, vải vóc còn thiếu thốn, cũng như không hề có bộn bề “đồ SiDa” như hiện nay, nên chị mới kiếm được dăm ba đồng bạc lẻ! Chứ bây giờ…!!! Đã dứt tiếng súng từ lâu, nhưng chính chị lại đang phải chiến đấu vì sự đói no của con mình, vẫn đè nặng lên đôi vai gầy guộc của chị hàng ngày, hàng giờ.
Nước mắt lưng tròng, chị run rẫy đốt mấy nén nhang sì sụp khấn vái vong linh người chết: “Ông sống khôn thác thiêng xin tha thứ cho tôi, tha thứ cho một người mẹ vì sự đói no của con mình mà phạm tội”. Chị vội vội vàng vàng lấy bộ đồ của bệnh viện thay cho người chết, rồi cuống quýt nhét bộ đồ lạnh ngắt ấy vào túi đệm. Không phải chị sợ một người nào đó nhìn thấy vì cửa nhà xác luôn đóng kín, mà chị sợ chính chị, sợ rằng mình không đủ can đảm làm tới cùng một công việc mà lương tâm chị không cho phép, nhưng tấm lòng người mẹ lại xúi bẩy, khuyến khích. Sau nầy, và sẽ đến cuối cuộc đời, mỗi khi thắp nhang chị lại lấy thêm một nén, chẳng biết có làm ấm thêm chút nào linh hồn người bất hạnh ấy hay không?! Nhưng mỗi nén nhang ấy ít ra cũng làm dịu đi nỗi cồn cào, bứt rứt trong sâu thẩm tâm can chị.
Sẽ là khập khiễng nếu ai đó một lần ngồi tỉ mẩn so sánh nỗi đau của người nầy với người khác, cho dù hai giọt nước mắt đều rơi ra từ khóe mắt của phận đàn bà. Và người hộ lý khốn khổ ấy với – “Người đàn bà viết tiểu thuyết” – Nguyễn Thị Thanh Huệ hôm nay là một, thời gian tôi biết chị không nhiều nhưng dường như ở một người bộc trực, “thẳng ruột ngựa” như chị, việc bày tỏ hết mọi ngóc ngách của cuộc đời mình với “thằng em” – là tôi. Như một việc hết sức đương nhiên, có gì mà nghĩ ngợi! Việc “mổ bụng tự xử” của chị làm tôi nhớ tới hình ảnh Harakiri của các võ sĩ đạo Nhật Bản. Phải chăng chị cũng muốn nhắn nhủ với tôi, với cuộc đời rằng: “Đấy! Cuộc đời tôi đấy. Hãy nhìn vào mà phán xét, mà bình phẩm đừng bỏ quên một thứ gì…”.
Chôn nhau, cắt rún vùng cù lao Ông Chưởng miệt Chợ Mới, An Giang. Cha chị vốn là một nông dân cày sâu cuốc bẫm, cả gia đình chẳng ai dính dáng gì tới văn nghệ, văn gừng. Có chăng một “nhiểm sắc thể” nào đó của người ông thích hò, ví vẫn thường ngân nga bên cối chày giả gạo thình thịch mà chị quen nghe từ độ còn tóc bom-bê, đã vận vào chị?! Để rồi mãi về sau nầy tuy “anh hoa phát tiết” chưa hẳn là rực rỡ nhưng chị cũng đã để lại cho đời một chút gì đó buồn vui của kiếp phong trần. Không đến độ phải kêu lên: “Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ…” như nhà thơ say họ Vũ, nhưng rõ ràng ở vào thập niên 30 của thế kỷ trước, khi chị chào đời (1938) bối cảnh đất nước hết sức rối ren. Hoàn cảnh xã hội đã vậy, nhà lại chẳng khá giả gì nên chuyện học hành của chị cũng không ít trắc trở, hết ghé trường nầy lại dạt sang trường khác. Vì vậy, mãi đến năm 1963, khi chị đã ngoài 20 tuổi, mới cầm được mảnh bằng tốt nghiệp Trung học Đệ nhất cấp lúc bấy giờ.
Với những người an phận, mảnh bằng có được ấy đủ sức kiếm một chân gõ đầu trẻ ở quê nhà, rồi có chồng, sinh con… nhưng chị đã không muốn như thế. Rời An Giang lên Sài Gòn, chị xin vào làm thư ký cho Nha Y tế công cộng. Để rồi họ: nàng thư ký và anh nhà báo, phải lòng nhau! Chị đã gặp anh, cả hai dắt tay nhau bước đi trên cuộc hành trình ít ngọt ngào, mà lại quá nhiều đắng cay và nước mắt.
Chồng chị – ký giả Nguyễn Duy Việt – bút danh Anh Việt viết cho các báo Dân Chủ, Hành Động ở Sài Gòn trong những năm cuối của thập niên 60, thế kỷ trước. Đâu ngờ rằng, khi mình đã nhắm mắt xuôi tay thì người vợ thân yêu của ông sau bao thăng trầm của cuộc sống, lại tiếp tục con đường “bán chữ” đầy nghiệt ngã, nuôi 5 đứa con thơ dại thành người.
Sau bao nhiễu nhương của thời tao loạn. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai vợ chồng cùng mấy đứa con dắt díu nhau về Cần Thơ, bắt đầu một giai đoạn mới. Giai đoạn mà chị thật sự hiểu một cách “hết sức” tường tận, mọi bề mặt – trái của chữ “nghèo”! Đã từng “chạy nhật trình” rồi thông dịch viên với số vốn văn hóa không thua kém ai, nhưng anh Hai Việt – chồng chị – đã phải lê la vỉa hè kiếm tiền nuôi con bằng nghề sửa xe, rồi chạy xe lôi, chẳng dính dáng gì tới chữ nghĩa. Phần chị! Một chân hộ lý quét dọn tại bệnh viện tỉnh, tối về tha thêm tủ thuốc lá đầu ngỏ. Bao mồ hôi, nước mắt đổ xuống, buồn thay cái nghèo chỉ thay đổi cách biểu hiện trước mắt người đời chứ không rời khỏi mái lá lụp xụp của vợ chồng chị. Cái chái nhà sau của thiên hạ mà anh chị phải chắt mót bao năm mới có được, dù nó thật sự vẫn chưa làm tròn nhiệm vụ.
Hơn 10 năm trời làm hộ lý, chị đã bao lần chuẩn bị tươm tất cho người chết, dù có thân nhân bên cạnh hay chỉ là cái xác vô thừa nhận. Và dù đó chỉ là bộ đồng phục bệnh viện khâm liệm trắng toát, thì với chị, họ cũng đã được chăm lo đầy đủ trước khi ra đi vào cõi vĩnh hằng. Vậy mà! Khi khóc anh, chị đã đau đớn biết bao nhiêu khi phải tiễn anh đi bằng bộ đồ “chật chội” của đứa con trai! Khi mà nơi áo quan anh nằm vẫn chưa kín nắng mưa. Năm 1987, anh mất thì một năm sau chị cũng rời bẹnh viện, bởi với số lương hộ lý ít ỏi thời kỳ ấy không thể nào làm no lòng đến sáu miệng ăn.
Sau nầy, khi mà tuổi đời đã ngấp nghé “cổ lai hy” nhớ lại quãng thời gian làm hộ lý, chị nghiệm ra rằng chính giai đoạn nầy đã “tạo ra” – người đàn bà viết tiểu thuyết – theo cách gọi của tôi. Có phải là may mắn hay không? Tôi không biết! Nhưng chính những ngày thay ga, trải nệm cho bệnh nhân, đã tạo cho chị cơ hội quen biết một vài người đang theo đuổi nghề văn chương lúc bấy giờ. Một nhà văn nữ, hiện đang rất nổi tiếng, lúc bấy giờ chỉ là cô kỷ sư nông nghiệp mới ra trường, có dăm ba truyện ngắn đăng báo. Đã là người chia sẻ với chị chút kinh nghiệm non nớt, khi chị viết truyện ngắn đầu tay “Gấu nhỏ” trong nhiều đêm ngơi việc, giữa cái thanh vắng đầy bất trắc của bệnh viện.
Tuy nhiên, cái mộng văn chương của chị lúc bấy giờ giống như một chút lãng mạn của đứa con gái mới lớn. Rời bệnh viện, xa mùi thuốc men, chết chóc chị lại tấp vào cái mùi bụi bậm, oi nồng của những chai xăng lẻ ven đường. Không chừng chị sẽ quên đi chuyện viết lách, mà lam lũ với cơm, áo, gạo, tiền… nếu không có thằng bé “con lai” hàng xóm: Mỹ Được. Phải! Thằng Mỹ Được, nhân vật chính trong truyện ngắn “Phù sa trên tóc bạch kim” tác phẩm đã dẫn đường cho chị mon men đến với văn đàn. Nơi chốn mà sau nầy đã lấy của chị không ít nước mắt so với những tháng ngày bụi bặm giữa đời. Không biết cái nhân vật chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử ấy bây giờ ở đâu? Có đọc được những dòng chị viết: “Tôi vẫn chúc mừng cho “Thế giới tự do” tìm lại được nhiều cuống nhau mà người ta đã vứt bừa trong cuộc viễn chinh. Nhưng Được ơi! Con ơi! Có bao giờ dòng Missisipi sẽ gội rửa sạch phù sa sông Hậu trên mái tóc bạch kim mười mấy năm trường không?!”.
Thông thường, với người không phải trời sinh làm nhà văn, mà cầm bút ngang xương như chị. Thì chất xúc tác mạnh mẻ nhất của sáng tạo lại là một cái gì đó thật cụ thể, đó là “thằng con lai” trong xóm, đó là “chị Dậu” (mẹ nó) của thế kỷ 20; đó là sự nhỏ nhoi, mỏng manh và đầy bất trắc của phận người đã trót “bị” sinh ra đời. Thì (theo cách nhìn thiển cận của tôi) đó cũng có thể là giải thưởng, là đồng tiền nhận được bởi những câu chữ mà chị đã chắt ra từ đôi dòng nước mắt. Nói theo ngôn ngữ vỉa hè, đây là một kiểu kiếm chác mới, không phải ở cuộc đời, mà là ở chính tâm hồn mình.
Quay lại thời điểm những năm đầu của thập niên 90 thế kỷ trước, tình hình xuất bản các văn hóa phẩm không trăm hoa đua nở như hiện nay. Trên kệ các nhà sách hầu hết là những tác phẩm văn học dịch từ các nước xã hội chủ nghĩa. Văn học trong nước lèo tèo dăm quyển tiểu thuyết chiến tranh, đôi ba bộ kiếm hiệp in lại của thời chưa giải phóng. Nhu cầu cần phải có “một cái gì mềm mại, lãng mạn” là thật. Nó giúp người ta tạm quên đi nỗi buồn chiến tranh, tạm quên đi bao khó khăn của đời sống. Một số người nhạy cảm trong chuyện kiếm tiền xuất hiện mà người ta gọi là “đầu nậu” sách. Và chị – Người đàn bà viết tiểu thuyết – nhà văn lề đường xuất hiện trên nhiều tờ báo lớn lúc bấy giờ, là đích đến của những người “nhạy cảm” nầy.
Không biết “… dòng Missisipi có gội rửa sạch phù sa sông Hậu…” hay không? Nhưng chắc chắn tác phẩm đầu tay ấy đã gột rửa sạch một quãng đời bụi bặm, lấm lem của chị. Sau khi nhận giải truyện ngắn do báo Hậu Giang trao, chị rời bộ cánh của bà bán xăng lẻ ven đường mà khoác vào mình chiếc áo “danh giá” của người cầm viết (lúc nầy chị đã được kết nạp là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Hậu Giang). Có thể lúc bấy giờ trong suy nghĩ của mình, với chị cái danh vị nhà văn không quan trọng bằng việc có tiền nuôi con mà không phải vất vả nắng mưa như cả quãng đời đã qua. Hai năm trời viết thuê theo yêu cầu của người làm sách tại TP. Hồ Chí Minh. Rồi sau đó là 30 bộ tiểu thuyết ra đời trong khoảng thời gian gần 10 năm (02 bộ “Tiếng khóc chim Đỗ Quyên và Con Tử Quy lạc loài” do Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. HCM ấn hành; số còn lại hầu hết đều của Nhà xuất bản Đà Nẵng), mỗi bộ 2 quyển, trên dưới 400 trang sách. Số tiền “nhuận bút” 3 triệu đồng mỗi bộ ấy mang lại cho chị một mái nhà khang trang; là năm đứa con, mỗi đứa một nghề tự kiếm sống; là dựng vợ, gả chồng; là cháu nội, cháu ngoại tíu tít quanh bà. Gần đây nhất, năm 2003 chị đã tái bản 4 trong số 30 bộ tiểu thuyết của mình. Riêng năm 2006, ở cái tuổi 68, “gần đất xa trời” chị lại tiếp tục sáng tác (cũng là những câu chuyện tình) và đã cho ra mắt truyện dài có tên “Mình thôi mãi xa” do nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành.
Có người khắt khe nhận định văn của chị thuộc dạng “Áo bà ba xương sa xương sáo”. Cũng phải thôi! “nhà văn lề đường” tất phải viết cho người bán bưng đọc! Nhưng, xin thưa! Khoan hãy bàn đến chuyện học thuật! Khoan hãy định danh, định tánh là nhà văn hay chỉ là một kẽ viết lách kiếm tiền (có ai viết văn mà không muốn có tiền từ những trang viết của mình?!). Trong hoàn cảnh của chị lúc bấy giờ, tôi biết chị không thể nào ngồi đó trau chuốt từng câu chữ để có một tác phẩm hoàn toàn ưng ý, trước sự thúc bách của cái cảm giác đói no, không phải của chị (bởi chị đã quen chịu đựng) mà là của những đứa con tội nghiệp. Chị chấp nhận điều đó cho một mục đích khác thiêng liêng (ít ra là đối với một người mẹ – tôi nghĩ vậy), hơn là đôi lời khen chê sáo rỗng. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là tất cả những sáng tác của chị chỉ “tầm tầm hàng chợ” theo một nghĩa nào đó. Còn những tác phẩm của chị đã in, đã xuất bản từ những địa chỉ hết sức uy tín như Nhà xuất bản Hội Nhà văn thì sao? Nếu ai đó mổ xẻ tác phẩm nghệ thuật bằng con mắt đố kỵ tất phải tìm ra điều muốn nói. Riêng tôi, một kẻ hậu sinh! Xin nghiêng mình kính phục sức sáng tạo của chị, cũng như hết sức trân trọng tấm lòng một người mẹ, đã vì đàn con của mình mà làm tất cả. Sau nầy, khi đã là “bạn viết” của nhau, tôi biết đã có không ít lần chị rơi nước mắt vì sự nghiệt ngã của nghề văn, của miệng đời thiên hạ. Những lúc ấy tôi rất muốn nhắn nhủ với chị rằng: xin chị hãy rơi nước mắt vì sự cảm thông sâu sắt trong kiếp người nhọc nhằn, hơn là phí hoài cảm xúc cho mọi thói xấu của nhân gian.
Nếu nói người viết văn như người nông dân cày xới trên cánh đồng chữ nghĩa thì những gì thu hoạch được dù là gạo đặc sản, gạo thường hay chỉ là những hạt bột nhỏ nhoi của bông lúa ma, cũng đã nuôi lớn tâm hồn những ai ăn nó. Nhìn vấn đề ở góc độ cầu toàn, người cầm bút chưa đặt chân vào ngưỡng cửa Hội Nhà văn Việt Nam, thì vẫn chưa phải là nhà văn “đúng nghĩa”. Tôi biết chị không nghĩ đến điều đó! Bởi với chị, cái thiết thực nhất là cơm no áo ấm, là con cái phương trưởng, là niềm vui chia sẻ với bạn bè văn nghệ một bài thơ, đoạn văn vừa viết xong… đã là quá hạnh phúc rồi. Đâu cần phải là “nhà văn lớn” mới hởi lòng, hởi dạ!
Cách đây không lâu (khoảng cuối năm 2005), Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại TP. Cần Thơ đã giới thiệu chị trong mục: “Nhân vật buổi sáng” với những lời lẻ hết sức trân trọng như một cách ghi nhận những đóng góp của chị cho cuộc đời. Gần đây nhất chị đã nhận được một trong mười giải đồng hạng do Báo Tuổi Trẻ trao trong cuộc thi “Những câu chuyện làm thay đổi cuộc đời tôi” năm 2007.
Khi tôi chuẩn bị đặt dấu chấm hết cho bài bút ký nầy cũng là lúc chị cầm trên tay ấn phẩm mang tên Nguyễn Thị Thanh Huệ chưa ráo mực. Một tuyển tập văn – thơ do Nhà Xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh ấn hành, có cái tên thật lạ “Chim Đỗ Quyên khóc hát”.
Phải chăng, chị cũng là một loài chim hoài niệm dĩ vãng đang cất tiếng hót hân hoan trong nước mắt?!
NGUYỄN TRUNG NGUYÊN