Phiếm về : HỎA là LỬA
Lửa Lòng tưới tắt mọi đường trần duyên …
và như lời của Thúy Kiều đã phân bua với Vương Viên Ngoại khi ông muốn nàng từ giả sư Giác Duyên để theo mọi người về nhà đoàn tụ :
Sự đời đã tắt Lửa Lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng mà chi ?!
Anh với em như Điệp với Lan,
Thanh mai trúc mã đẹp muôn vàn.
Vỏ vẻ thơ Đường anh đọc thấy,
Chuyện mình sao giống khúc Trường Can…
Chả trách mối tình đầu học sinh tan vỡ theo khói mây như bao mối tình đầu khác !
Ngọn tâm hỏa đốt dàu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
Lại buồn đến cảnh con con,
Trà chuyên nước nhất, hương đùn khói đôi !
Lửa Tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên !
Giáp Cốt Văn là hình tượng của một ngọn lửa được vẽ cách điệu để tượng trưng cho lửa, qua Đại Triện, Tiểu Triện dần dần diễn tiến thành chữ viết, cho đến Chữ Lệ thì đã định hình giống như chữ viết hiện nay HỎA 火 là LỬA. Có tất cả 407 chữ được ghép bởi bộ Hỏa nầy để chỉ những gì có liên quan tới Lửa như đèn đóm đuốc nến, nóng nực sáng sủa, nấu nướng chiên xào … đều thuộc bộ Hỏa cả , Cho thấy là Lửa quan trọng biết bao trong đời sống của chúng ta.
Lửa cháy đỏ rực, hừng hực với ngọn lửa đỏ bốc cao là Dương Hỏa, còn lửa cháy âm ỉ với ngọn lửa xanh dịu dàng chập choạng là Âm Hỏa. Nhưng dù âm dù dương thì lửa vẫn cho ánh sáng và sức nóng có thể thiêu đốt hoặc làm thay đổi hình dạng của những vật chất khác, kể cả Vàng cũng bị chảy thành chất lỏng, mặc dù ông bà ta nói ” Vàng thật không sợ lửa “, cũng là để chỉ màu sắc của vàng không hề bị suy suyển mà thôi.
* Thiên Thượng Hỏa 天上火, Tích Lịch Hỏa 霹靂火, Sơn Đầu Hỏa 山頭火 thì không kỵ thủy, không sợ nước, có nước lại càng nổ lớn cháy lớn hơn.
* Sơn Hạ Hỏa 山下火, Lô Trung Hỏa 爐中火, Phúc Đăng Hỏa 覆燈火 thì gặp nước, gặp mưa đổ xuống là tắt queo ngay !
* Toại Nhân 燧人, hay Toại Nhân thị 燧人氏, là người sáng tạo ra lửa trong Thần thoại Trung Hoa cổ đại, có thuyết xưng ông là một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Theo Cao Đài từ điển, Toại là khoan gỗ lấy lửa, còn Nhân là người.
Theo Sách Hàn Phi tử – Ngũ Đố chép rằng: ” Thời thượng cổ, dân ăn quả, củ, thịt sống nên bị đau bụng, bệnh tật rất nhiều. Có thánh nhân bổ củi để lấy lửa nấu chín thức ăn, dân ca ngợi tôn làm vua trong thiên hạ, hiệu là Toại Nhân thị “. Nhờ có Toại Nhân, loài người có lửa, không còn đứng ngang hàng với cầm thú như trước nữa.
Toại Nhân thị 燧人氏 Chúc Dung 祝融 Bà Hỏa Chúc Dung
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lặp lòe đâm bông.
“…Người ơi, mau về đây,
về bên bếp hồng tay cầm tay…
Lửa đêm đốt hồng vai kề vai
Và nghe câu hát yêu đời ai
Hát mãi sao không nguôi…”
… và cái ” bếp hồng ” ấm áp hạnh phúc kia theo mãi trong tâm thức của những con người tha phương cầu thực như chúng ta mãi mãi cho đến trọn đời :
Ơi,… nỗi lòng chan chứa,
Hỡi người ơi … biết sao cho vừa… tình thương… của bếp hồng soi !
…Chiều nay mưa còn rơi
Chiều nay bếp hồng đang còn say
Chiều nay vui sống trong tình yêu.
Nhớ phút vui không nguôi.
Nào ai xa ngàn nơi.
Kìa bao mái nhà đang chờ ai
Kìa bao bếp hồng đang còn tươi
Thương nhớ lên đầy vơi…”
Ôi, qủa là những lời ca ray rức, não nuột làm xúc động lòng người xa xứ !… Bài hát ” Về Dưới Mái Nhà ” đã ăn sâu vào tâm thức của tôi khi tôi vừa mới lớn, khoảng cuối thập niên năm mươi của Thế Kỷ trước, lúc Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới về nước chấp chánh, nên… đến bây giờ định cư trên đất Mỹ nầy, lời của bài hát càng âm ỉ râm rang hơn làm ray rức mãi lòng người viễn xứ như tôi, nhất là vào những ngày cận Tết với trời đông gía lạnh…..
Trong thi ca cổ cũng vẽ nên một bức tranh ấm áp của những người bạn xa quê tìm đến với nhau trong những đêm xuân cận Tết với các nét chấm phá thật nên thơ như trong bài Hàn Dạ ( đêm lạnh ) của Đỗ Tiểu Sơn đời Tống :
寒夜客來茶當酒, Hàn dạ khách lai trà đương tửu,
竹爐湯沸火初紅。 Trúc lô thang phất hỏa sơ hồng.
尋常一樣窗前月, Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt,
才有梅花便不同。 Tài hữu mai hoa tiện bất đồng.
Có nghĩa :
Đêm đông bạn đến rượu thay trà,
Quanh bếp than hồng nước mới pha.
Bên cửa thường ngày trăng vẫn chiếu,
Thêm cành mai nữa, nhớ quê xa !…
火照西宮知夜飲, Hỏa chiếu Tây cung tri dạ ẩm
分明復道奉恩時。 Phân minh phúc đạo phụng ân thì.
Có nghĩa :
Lửa chiếu Tây cung đang dạ tiệc,
Rõ ràng nơi đó hưởng ơn vua !
…và buồn như nàng cung nữ trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu :
Hóa công sao khéo trêu ngươi,
Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.
… cũng là đèn lửa nhưng buồn vui có khác, và không chỉ có buồn vui, có những ánh đèn còn rất nên thơ, như đèn của lửa chài trong Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế :
mà Tản Đà đã diễn Nôm rất nên thơ là :
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ…
… hay như hai ba đóm lửa lặp lòe của một bến đò xa xa trong đêm tối trong bài Đề Kim Lăng Độ của Trương Hỗ đời Đường :
金陵津渡小山樓, Kim Lăng tân độ tiểu sơn lâu,
一宿行人自可愁。 Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
潮落夜江斜月裡, Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý
兩三星火是瓜州。 Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua Châu
Có nghĩa :
Kim Lăng bến nước cạnh đồi cao,
Lữ khách qua đêm tự cảm sầu.
Triều xuống trăng mờ chênh chếch chiếu,
Lặp lòe đóm lửa ấy Qua Châu !
Trong cảnh đêm khi nước thủy triều đang xuống dưới ánh trăng nghiêng nghiêng mờ chiếu, thấp thoáng hai ba đóm lửa đèn nhà ai như những vì sao lạc kia, chính là bến đò Qua Châu đối diện đó vậy ! Qủa là một bức tranh chấm phá với cảnh đèn đóm trong đêm vô cùng nên thơ và thi vị !
Lửa dịu dàng là thế, ấm áp là thế, nên thơ là thế… nhưng khi nổi ” tam bành ” thì ” Bà Hỏa ” hoạn đến không buông tha cho ai cả, không buông tha cho vật chất nào cả, mà thiêu rụi sạch sành sanh. Bão tố giật xập nhà cửa, nước lụt cuốn trôi nhà cửa, nhấn chìm ghe xuồng… nhưng cũng còn vớt vát lại được chút đồ đạc còn trôi nổi trên sông, chớ sau một cơn hỏa hoạn thì tất cả còn lại chỉ là đống tro tàn của dĩ vãng mà thôi !
Nghe vùng tâm tư … cháy đỏ …xoay ngang lưng trời …
Những đóm mắt hỏa châu, bừng lên trong màn tối ,
Như mắt em sáng ngời, theo anh đi ngàn lối …
Những đêm không ngủ… anh ngồi tâm sự …cùng hỏa …châu rơi…..
Qủa là tội nghiệp cho tuổi trẻ của Miền Nam khoảng thập niên 60-70 thế kỷ trước , tuổi trẻ của Việt Nam nói chung đã bị cuốn vào vòng chiến tranh ý thức hệ một cách oan uổng…
Ngày xưa, gọi chiến tranh là Phong Hỏa 烽火, là những lửa khói bốc lên do chiến loạn, mà cũng là những lửa khói được đốt lên để báo hiệu chiến tranh đang diễn tiến đến nơi nào, là những Phong Hỏa Đài 烽火台 dùng để cảnh báo cho dân chúng hậu phương biết trước mà tránh xa và nhất là để cho quan binh hậu phương biết đường mà ứng phó. Nên Phong Hỏa là chiến tranh như Đỗ Phủ đã viết về chiến loạn do An Lộc Sơn gây ra :
Phong Hỏa liên tam nguyệt 烽火連三月
là Chiến tranh kéo dài suốt ba tháng liền… đã gây ra rất nhiều chết chóc khổ đau tang thương khắp chốn, huống chi cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam kéo dài những ba mươi năm, nhân dân cả nước phải hứng chịu biết bao nhiêu là đau thương đồ thán do bom đạn gây ra !
Giấm Chua lại tội bằng ba Lửa Nồng !
Hỏa còn dùng để chỉ vũ khí của quân đội như từ Hỏa Thương 火槍 là Súng Ống, Hỏa Dược 火藥 là Thuốc súng, Hỏa Lực 火力 là sức mạnh của vũ khí quân đội, Hỏa Tốc 火速 là Nhanh Chóng, Hỏa Công 火攻 là Tấn công bằng lửa, dùng lửa để Hỏa Thiêu 火燒 đốt cháy quân địch, như trận Hỏa Thiêu Xích Bích 火燒赤壁 của Khổng Minh Gia Cát Lượng đã đốt tiêu 81 vạn quân của Tào Tháo trên dòng sông Xích Bích vậy. Cuối cùng để nuôi sống quân đội hàng ngày còn có anh Hỏa Đầu Quân 火頭軍 mà sau nầy trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa gọi là Lính Nhà Bàn, còn Bộ đội Bắc Việt thì gọi là Anh Nuôi.
Đời Yên Chiêu Vương, tướng Yên là Nhạc Nghị đem binh đánh Tề. Tướng Tề là Điền Đan cố giữ thành Tức Mặc. Năm 279 trước Công Nguyên, Yên Huệ Vương nối ngôi, Điền Đan dung kế ly gián để Yên vương dùng tướng Kỵ Kiếp thay cho Nhạc Nghị, đoạn lại dùng kế trá hàng để Kỵ Kiếp không phòng bị, rồi đang đêm gom hết cả ngàn trâu bò trong thành, buộc gươm đao nhọn vào sừng trâu, đuôi trâu buộc cỏ rơm có tẩm dầu, rồi đốt lửa lên, trâu bị nóng cắm đầu cắm cổ phóng về phiá quân Yên, lại cho 5000 lính cảm tử xung phong giết tới. Quân Yên đại bại, Kỵ Kiếp chết trận, Điền Đan thừa thế xua quân đánh chiếm lại hơn 70 thành đã bị mất.
Một nắm xương khô, một nắm da
Bao nhiêu cái ách đã từng qua
Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa
Tai nặng buồn nghe Nịnh Thích ca
Sớm thả đồng đào ăn đủng đỉnh
Tối về chuồng quế thở nghi nga
Có người toan giết tô chuông mới
Ơn đức vua Tề, lại được tha.
Bài thơ trên có người cho là của cụ Huỳnh Mẫn Đạt, có người cho là của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Nhưng dù của ai thì đây vẫn là một bài thơ hay.
* Hỏa thượng gia dầu 火上加油 : Ta nói là “Lửa cháy thêm dầu” hay là “Đổ thêm dầu vào lửa”, ý nói đã không chửa cháy mà còn làm cho nó cháy lớn thêm hơn !
* Hỏa hải đao sơn 火海刀山 : Ta nói là “Núi đao biển lửa” để chỉ những nơi vô cùng nguy hiểm, những chỗ mất mạng như chơi !
* Can sài liệt hỏa 乾柴烈火 : là Củi khô lửa mạnh, ta nói là “Lửa gần rơm” lâu ngày cũng bén.
* Sấn hỏa đả kiếp 趁火打劫 : Thừa lúc lửa cháy để cướp đồ của người khác, ta nói là ” Thừa nước đục thả câu”.
* Phong hỏa liên niên 烽火連年 : Chiến tranh năm nầy liền năm khác, ta nói là ” Chiến tranh dai dẳng” như cuộc nội chiến của Việt Nam ta ngày xưa làm cho quân dân đều chán ngán.
Viễn thủy nan cứu cận hỏa, 遠水難救近火,
Viễn thân bất như cận lân. 遠親不如近鄰。
Có nghĩa :
Nước xa không thể cứu được lửa gần ,
Bà con xa không bằng láng giềng gần.
Thành môn thất hỏa, 城門失火,
Ương cập trì ngư. 殃及池魚。
Có nghĩa :
Cửa thành bị lửa cháy, bị hỏa hoạn, thì làm cho lũ cá ở trong ao cũng bị tai ương, bị vạ lây, vì… người ta sẽ vét hết nước ở trong ao để chửa lửa, nên cá sẽ không còn nước để sống nữa ! Giới bình dân gọi là : “bị văng miểng”, bị họa lan can !
… Bập bùng bấp bung ….đêm khuya thêm não nùng…
Lửa càng bừng cháy, siết tay nhau… chúng ta cùng múa
quanh lửa hồng… cháy trong rừng khuya
và…
… Lửa cháy, hăng lửa giục lòng dân …đoàn kết
Lửa reo, vang lửa gào lòng ta …nguồn sống
Lửa Tự Do …muôn năm vẫn reo …rừng ơi !
Thân Tứ Đại trả về Tứ Đại,
Tim của ngài tồn tại thế gian !
Lửa là Hỏa và Hỏa là Lửa. Lửa thiêu rụi tất cả, nhưng không thể thiêu rụi được Tinh thần đoàn kết và ý chí đấu tranh !
Giáp Cốt Văn Kim Văn Đại Triện Tiểu Triện
Từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Triện đều là hình tượng của một mô đất trên mặt đất, nên Thổ vừa là chữ Tượng Hình vừa là chữ Chỉ Sự, chỉ một đống đất trên mặt đất, đến Tiểu Triện thì các nét mới được kéo thẳng ra thành biểu tượng của chữ viết, cho đến Chữ Lệ thì mới hoàn chỉnh như chữ viết hiện nay THỔ 土 là ĐẤT.
– Thổ Địa 土地 : là Đất Đai, chỉ tất cả các loại đất trên đời nầy.
– Thổ Nhưỡng 土壤 : cũng là Đất Đai, chỉ tất cả các loại đất dùng để trồng trọt.
– Thổ Cư 土居 : chỉ tất cả các loại đất dùng để ở.
– Thổ Canh 土耕 : là tất cả các loại Đất dùng để canh tác, làm ruộng.
– Thổ Trạch 土宅 : là tất cả các loại Đất dùng để cất nhà ở, biệt thự.
– Thổ Mộ 土墓 : là tất cả các loại Đất dùng để chôn cất người trong gia tộc, còn gọi là Đất Hương Hỏa, là đất dùng để lo nhang đèn hương khói cho người thân đã chết.
* Lộ Bàng Thổ 路旁土 : Đất bên đường.
* Thành Đầu Thổ 城頭土 : Đất đầu thành.
* Ốc Thượng Thổ 屋上土 : Đất trên mái nhà.
* Bích Thượng Thổ 壁上土 : Đất trên vách.
* Đại Trạch Thổ 大澤 土 : Đất trong đầm lầy lớn.
* Sa Trung Thổ 沙中土 : Đất trong cát.
và…
Mặc dù Mộc khắc Thổ, cây cối mọc lên hút hết chất bổ của đất làm cho đất trở nên cằn cỗi, và cây gỗ để ở dưới đất lâu ngày sẽ bị đất làm cho mục nát hết. Cái nầy kêu bằng tương khắc với nhau, nhưng…
Lộ Bàng Thổ (đất ven đường), Đại Trạch Thổ (Đất trong đầm lầy lớn) và Sa Trung Thổ (Đất pha cát) không sợ Mộc, vì cây không sống giữa đường cái quan hay trên bãi cát, đầm lầy. Cả ba hành Thổ này nếu gặp Mộc không khắc dù Mộc khắc Thổ, trái lại còn có đường công danh, tài lộc thăng tiến không ngừng.
Tiền tài như phân thổ, 錢財如糞土,
Nhân nghĩa trị thiên kim. 仁義值千金。
Có nghĩa :
Tiền của tài sản như phân như đất,
Nhân nghĩa mới đáng giá ngàn vàng.
là ý ông bà muốn đề cao nhân nghĩa mà xem nhẹ tiền tài, tiền tài chỉ như phân như đất mà thôi, cũng như lời cô Kiều đã nói với Kim Trọng khi biết Kim đã nhặt được chiếc kim thoa của mình :
Chiếc thoa là của mấy mươi,
Mà lòng trượng nghĩa khinh tài xiết bao !
Tiền tài như…. ông tiên tổ,
Nhơn nghĩa tợ… cục cứt khô !
Ông bà ta lại dạy rằng : ” Tấc đất là tấc vàng ” để con cháu biết quý trọng cái cuộc đất mà ta đang sở hữu, nếu biết sử dụng đất một cách thích đáng, biết bỏ công sức lao động canh tác trồng trot, thì ” tấc đất sẽ cho một tấc vàng ” như chơi mà thôi !
Nhớ khi xưa cái miếu Thổ Địa ở đầu làng quê tôi có đôi câu đối như sau :
ĐỊA khả xuất hoàng kim. 地可出黃金。
Có nghĩa :
Đất có thể sanh ra ngọc trắng, và
Đất cũng có thể cho ra vàng ròng !
Hạt ngọc trắng ở đây chính là hạt gạo trắng ngần đã nuôi sống chúng ta hàng ngày, còn vàng ròng sẽ có được nếu chúng ta chịu cày sâu cuốc bẫm. Đất chẳng những cho ta chỗ ở, cho ta việc làm, còn cho ta cái ăn cái mặc nữa, nên ông bà ta rất coi trọng đất và luôn quan niệm rằng : ” Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá “. Thổ Công là ông thần đất, còn được gọi là Thổ Thần, nên khắp cả các thôn làng, nơi nào cũng có Thổ Công của nơi đó, và ông thần đất nầy cũng luôn luôn được cúng tế đầy đủ ở bất cứ lễ lạc nào. Trong Truyện Kiều tả lúc Bạc Hạnh thành thân với cô Kiều, cụ Nguyễn Du cũng đã viết :
Qúa lời nguyện hết Thành Hoàng Thổ Công.
土旺人從旺,
神安宅自安。 Thần an trạch tự an.
Có nghĩa :
Đất có vượng thì người cũng sẽ vượng theo, và…
Thần có được yên ổn, thì nhà cũng sẽ tự nhiên được yên ổn mà thôi !
– Thổ Dân 土民 : Dân cố hữu của một địa phương hay của một vùng nào đó. Ví dụ : Thổ Dân của Châu Mỹ là những Bộ tộc mọi Da Đỏ chẳng hạn…
– Thổ Sản 土產 : là Đặc sản riêng của một vùng nào đó , Như Thổ Sản của Lái Thiêu là Sầu Riêng chẳng hạn…