TOÀ LÂU ĐÀI CỦA MẸ TÔI PHẦN III
Ở miền trung và một phần phía bắc nước Pháp, một luồng gió lạnh hơn thổi vào những ngày đầu của tháng chín cuốn đi những chiếc lá mầu vàng chói đẹp đẽ, những chiếc lá quay qua một cách yểu điệu như một chú chim, lướt đi rồi quay cuồng khắp nơi. Đây là dấu hiệu rừng cây sắp tàn tạ, thoạt tiên đổi sang màu đỏ, tiếp đó trở nên trơ gầy, đen đủi vì bao nhiêu lá cây đều bay theo chim nhạn khi mùa thu thổi vào chiếc tù và vàng ánh.
Tuy nhiên trong vùng Provence của chúng tôi các cây thông cũng như những cây olive chỉ chuyển sang màu vàng khi nào chúng thực sự chết mà thôi. Những cơn mưa đầu tháng chín rửa sạch các cành làm chúng trở nên xanh tươi như vào tháng tư.
Vogelbeeren
Trên vùng cao, lá cây Thymian, Rosmarin, Wacholder vẫn giữ được mầu xanh giữa đám Oải hương. Chỉ ở các thung lũng, mùa thu mới âm thầm bước tới. Chỉ cần một trận mưa đêm cũng đủ để cho ngọn đồi nho bé nhỏ và bốn cây đào đổi sang màu vàng làm người ta tưởng chừng như chúng bị bệnh. Muốn che dấu sự xuất hiện của mình, mùa thu đã làm đỏ rực những cây Vogelbeeren để được lầm tưởng với mùa xuân.
Những ngày nghỉ dù luôn hoà hợp cũng không thể kéo thời gian trở lại được, mùa hè dù đã chết rồi cũng trưng bày một bộ mặt không nếp nhăn.
– “Ai nói với bạn là mùa thu đã đến?”
– “Trong bốn ngày nữa là Michaeli và chim Alpendrosseln bay đến. Chưa phải là những đàn lớn vì chúng sẽ đến nhiều vào tuần tới, ở tháng mười..”
Tim tôi tự nhiên thắt lại khi nghe mấy chữ cuối cùng! Tháng mười! Bắt đầu trở lại trường! Tôi không muốn nghĩ tới, tôi chống lại ý tưởng này một cách mạnh mẽ, bằng tất cả sức lực. Thuở đó tôi ở trong trạng thái tinh thần mà sau này tôi mới hiểu được khi thầy Aimé Sacoman giải nghĩa cho chúng tôi về lý tưởng chủ quan của Fichte. Giống như triết gia Đức, tôi đã tin, thế giới bên ngoài là sự sáng tạo của tôi, sức mạnh tinh thần của tôi sẽ thành công trong việc xoá bỏ những sự kiện khó chịu bằng một nét bút lông. Từ sự tin tưởng bẩm sinh và từ những sự kiện trái ngược với niềm tin, đứa trẻ thường trở nên giận dữ khi một việc xảy ra ngoài ước muốn của chúng.
Tôi cũng tìm cách không công nhận tháng mười, nó xảy ra vào thời gian nào đó trong tương lai và cũng vì thế mà ít có phản kháng hơn là việc đang xảy ra ở hiện tại.
Một tiếng gầm đã giúp tôi thành công trong việc muốn bỏ ngang câu chuyện một cách hợp lý.
Lili đứng dậy để lắng nghe: tiếng gầm lại vang rền, ở phía dưới của Allauch, bên kia của Taoumé.
“Rồi, nó tới rồi” Lili nói “Bạn sẽ thấy, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ sẽ có nó. Nó còn tương đối xa nhưng nó sẽ tới.”
Tôi bò ra khỏi bụi Weissdorn và thấy bầu trời tối đen.
– “Chúng ta phải làm gì? Có nên trở lại nguồn nước Baume-Sourne không?”
– “Không cần thiết. Tôi biết một chỗ ở phía bên kia của Taoumé, nơi đó chúng ta không bị ướt mà còn có thể quan sát được mọi thứ. Nào đi đi!”
Hắn bắt đầu chạy.
Ngay lúc ấy cảnh vật dường như rúng động vì một loạt sấm nghe rất gần. Lili quay lại phía tôi:
“Đừng sợ! Chúng ta còn nhiều thời giờ!”
Nhưng hắn ta lại gia tăng tốc độ.
Chúng tôi leo qua hai kẽ đá nứt, hẹp và dốc, trong khi bầu trời càng ngày càng tối sầm. Khi chúng tôi đến được gò núi, tôi nhìn thấy một bức tường màu tím kéo đến và bị một ánh chớp không tiếng động xé rách.
Chúng tôi leo xuyên qua kẽ đá thứ ba, dốc đến nỗi gần như chỉa thẳng lên trời và đến được tầng cấp nối liền với vùng cao, nơi mà chỉ còn vài thước nữa là đến đỉnh núi.
Kẽ đá nứt
Bước thêm năm mươi bước, vách đá mở ra một khoảng cách hình tam giác, đường kính chừng một thước. Chúng tôi chui vào trong. Loại hang động này khoảng đầu thì rộng nhưng càng vào trong càng hẹp hơn và biến mất khi càng vào sâu trong bóng tối.
Lili kiếm ít phiến đá phẳng để xếp thành một cái ghế dài, từ đây có thể nhìn thấy cảnh vật. Hắn đưa hai tay lên miệng để làm như máy phóng thanh và hét các đám mây:
“Bây giờ hãy bắt đầu đi!”
Chẳng có gì xảy ra.
Ngay chân chúng tôi, phía dưới vùng cao với ba tầng cấp là thung lũng Jardiniertal trải dài. Rừng thông kéo tới tận vách đá thứ hai của vực sâu thuộc Passe-Temps, nơi này cũng bị giới hạn bởi hai vùng cao đơn độc.
Phía bên phải, gần như cùng chiều cao với chúng tôi là đồng cỏ tại sườn đồi của Taoumé, nơi mà chúng tôi đặt bẫy.
Phía trái của Jardiniertal thì các vách đá với cây thông và những cây sồi lùn như viền cả chân trời.
Cảnh vật như lay động mà tôi thường thấy trong những ngày nóng nực làm bầu khí quyển rung rinh, bây giờ lại hiện ra như một cái nôi cứng nhắc…
Các đám mây tím bay qua đầu chúng tôi để rồi tia sáng màu xanh càng lúc càng yếu đi như ngọn đèn sắp tắt. Tôi không sợ nhưng cảm nhận được một nỗi bất an thật lạ kỳ, một nỗi lo âu sâu thẳm và hoang dã.
Từ các ngọn đồi, một mùi hương mà phần lớn là mùi thơm của hoa Oải hương trở nên nặng nề, toả lên một cách tõ rệt từ mặt đất.
Một vài con thỏ rừng chạy hối hả như bị chó săn đuổi; chim trĩ bay yên lặng, cánh giang rộng rồi đáp xuống vách đá xám, cách chúng tôi chừng ba chục bước. Trong khoảng im lặng trang trọng của đồi núi, các cây thông bất động bắt đầu cất tiếng ca.
Đó là tiếng thì thầm từ xa, quá yếu ớt để có thể tạo ra tiếng vọng nhưng kinh khiếp, liên tục và bí ẩn.
Chúng tôi không động đậy mà cũng chẳng nói năng gì cả. Từ một phía của Baume-Sourne, nơi vách đá, vang lên tiếng kêu của một con diều hâu, một tiếng kêu chói tai, ngắt quãng như biến thành tiếng mời gọi trải dài.Trên vách đá xám trước mặt tôi, những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi.
Chúng đập xuống, cách xa nhau thành những đốn màu tím to bằng đồng hai xu. Rồi mưa rơi nhanh hơn, dầy hơn và chẳng bao lâu, vách đá trở nên bóng loáng như con đường trải nhựa. Một cái chớp xuất hiện thật nhanh, tiếp theo là tiếng sấm vang rền làm vỡ tan tảng mây, đổ hàng loạt nước đến điếc cả tai xuống các triền đồi.
Mưa trên núi đồi
Lili cười lên: tôi thấy mặt hắn ta tái nhợt và cảm nhận là tôi cũng thế nhưng hơi thở của chúng tôi cũng nhẹ nhàng hơn.
Những hạt mưa rớt thẳng như cái màn ngọc trai che mất đi cảnh vật và chỉ còn lại như một vòng bán nguyệt. Thỉnh thoảng có một tia chớp làm sáng loé lên thật nhanh khiến ta có cảm tưởng như không có gì thay đổi; trên cao đầy mây đen, những bóng cây thẫm màu đâm xuyên qua lớp màn mưa trong suốt.
– “Bây giờ cha tôi đang ở đâu?” tôi hỏi.
– “Có thể đang ở trong hang tại Passe-Temps hoặc ở nguồn nước Zive.”
Hắn ta suy nghĩ vài giây rồi nói:
– “Nếu bạn thề với tôi là bạn sẽ không tiết lộ cho ai biết thì tôi sẽ chỉ cho bạn cái này. Nhưng bạn phải thề là: Thánh giá bằng gỗ, thánh giá bằng sắt.”
Đây là lời thề long trọng và được thực hiện trong những trường hợp thật đặc biệt. Tôi thấy vẻ mặt hắn rất nghiêm trọng. Tôi đứng lên, giơ tay phải và với sự phụ hoạ của tiếng mưa rơi, tôi nói rõ ràng lời thề:
– “Thánh giá bằng gỗ, thánh giá bằng sắt
Nếu tôi dối trá, ác quỷ sẽ xé tôi thành từng mảnh”
Sau mười giây im lặng-khi lời thề đã được chứng nhận, hắn đứng dậy:
– “Được rồi,” hắn nói. “Đi đi, chúng ta phải theo phía bên kia.”
– “Phía bên nào?”
– “Lối đá này đi xuyên qua Taoumé.”
– “Trước đây bạn đã đi lối này chưa?”
– “Đi hoài.”
– “Thế sao bạn chưa kể cho tôi nghe?”
– “Đó là điều bí mật lớn. Chỉ có ba người biết là Baptistin, cha tôi và tôi. Có bạn nữa là bốn.”
– ” Bạn nghĩ nó quan trọng lắm sao?”
– “Dĩ nhiên! Cũng vì mấy ông cảnh sát! Khi thấy cảnh sát ở phía bên kia của Taoumé, người ta dùng con đường này để trốn. Cảnh sát vì không biết đường nên phải đi vòng, đến nơi thì người ta đã biến mất từ lâu rồi. Bạn phải thề là bạn không được tiết lộ cho ai cả.”
– “Cả với cha tôi nữa sao?”
– “Cha bạn có giấy phép đi săn nên ông đâu cần phải biết đường này.”
Càng vào sâu thì hang càng hẹp, rẽ phải rồi rẽ trái. Lili đưa vai vào trước rồi chui hẳn vào.
“Đừng sợ, chút nữa sẽ rộng hơn!”
Tôi theo hắn ta, lối đi khi lên cao rồi lại xuống thấp, hắn rẽ sang trái rồi lại sang phải. Không còn nghe tiếng mưa rơi nhưng vách đá chung quanh chúng tôi rung rinh vì tiếng sấm…
Tới lối rẽ cuối cùng, một tia sáng hiện ra nhưng lại bị màn sương mù dày đặc che khuất. Phía bên kia sườn đồi, đường hầm mở rộng; dưới chân chúng tôi chắc chắn là những thung lũng vùng Ecaouprès bị sương mù che khuất. Thêm vào đó những đám sương mù dầy đặc, sủi bọt giống như thuỷ triều dâng, tiến đến bọc quanh chúng tôi nên cách chừng mười bước là không nhìn thấy gì cả.
Hầm đá nơi chúng tôi đang đứng rộng hơn lúc trước, thạch nhũ treo từ trần xuống và ngưỡng cửa cao khoảng hai thước.
Bây giờ cơn mưa đổ xuống dữ dội hơn. Các tia chớp loé sáng không ngừng nghỉ. Tiếng sấm này như chồng lên tiếng sấm kia, lần nào cũng có tiếng vang vọng lại.
Ngay sát cửa hang, bụi Ginster đang run rẩy dưới những giọt mưa rào, mỗi lúc đám lá xanh càng nhạt màu đi. Phía bên phải, nước mưa chảy ào ào cuốn theo đá, sỏi rồi sùng sục tiếp tục dẫn đến các thác ngầm.
Bụi Ginster
Chúng tôi đang được che chở an toàn để thi thố với sức mạnh của cơn giông thì một tia chớp đánh xuống gần ngay chúng tôi, kéo sụp cả một tảng đá.
Chúng tôi nghe thấy tiếng thân cây bị gãy vì đá từ trên cao đổ xuống, chẳng khác gì cây bị phá nát vì mìn ở dưới thung lũng.
Lần này tôi run lên vì sợ nên tránh vào một góc của nơi đang trú ẩn.
“Đẹp quá!” Lili nói.
Tôi biết là hắn ta thực sự không nghĩ như vậy.
– “Đẹp nhưng mà ghê quá.”
– “Còn kéo dài lâu không?”
– “Khoảng một tiếng nữa thôi, không lâu hơn đâu.”
Những sợi nước từ từ rơi xuống từ chòm vòng, nơi mà trần đã biến mất trong bóng tối. Rồi khi cả khối nước trút xuống, chúng tôi phải di chuyển đi nơi khác.
“Tệ quá, chúng ta bị mất ít nhất là hai chục chiếc bẫy.” Lili nói. “Những cái bẫy khác thì phải hơ lửa cho khô trước đã rồi mới bôi mỡ vào…”
Hắn ta ngừng nói và nhìn trừng trừng trên trần cao, phía sau tôi. Hắn chu mỏ và thì thầm:
“Cúi xuống cẩn thận và lượm hai viên đá to!”
Hoảng hồn, tôi rụt đầu lại và ngồi im. Tôi thấy hắn từ từ cúi xuống, mắt luôn nhìn vào khoảng cao sau lưng tôi. Tôi cũng cúi xuống thật chậm. Hắn nhặt hai viên đá, tôi cũng làm theo.
“Quay cẩn thận lại phía sau!”, hắn nói khẽ.
Tôi quay đầu trước rồi mới quay cả người, trên cao, trong bóng tối, tôi thấy hai con mắt sáng như lưu huỳnh đang lấp lánh.
– “Có phải ma cà rồng không?”
– “Không. Đó là con cú lớn.”
Tôi cố nhìn lên trên và nhận ra được hình dạng của một con chim. Nó ngồi xổm trên một mỏm đá nhô ra. Nước mưa lũ đã làm nó phải rời tổ ở đâu đó khuất trong vách đá.
“Khi nó tấn công, phải coi chừng cặp mắt của bạn.” Lili thì thầm.
Tôi hoảng kinh.
“Chúng mình đi khỏi nơi đây đi”, tôi nói, “Đi càng nhanh càng tốt! Thà bị ướt đến tận da thịt còn hơn là bị mù!”
Chim cú Uhu
Tôi chạy ra trong sương mù. Hắn chạy theo tôi. Tôi bị mất mũ, mưa xối xả trên chiếc đầu trần, từng lọn tóc treo trước mắt.
“Cứ đi sát vào vách đá!” Lili la lên. “Thứ nhất là đỡ bị ướt, thứ hai nữa là không bị lạc.”
Quả thật là chỉ cách có bốn bước mà tôi đã không nhìn thấy gì cả. Tôi tự tin vào sự thông hiểu khá đủ của chúng tôi về nơi chốn này nên chỉ cần nhận ra được một cái cây, một phiến đá cũng như một bụi rậm là có thể tìm thấy đúng đường. Tiếc thay sương mù dầy đặc phủ như một bức màn nên không những đã xoá nhoà mà còn làm thay đổi hình dạng của mọi vật. Chúng tôi thấy hình dạng lờ mờ, cong cong của một cây thông nhỏ nhưng hình bóng của cây sồi khổng lồ bên cạnh lại biến mất đi, để rồi cây thông cũng không còn nữa và nửa cây sồi lại xuất hiện khiến chẳng ai còn nhận ra được gì nữa. Chúng tôi di chuyển trong một cảnh vật biến đổi liên tục. Nếu không có vách đá để sờ và đi dọc theo thì chỉ còn một cách duy nhất là dừng lại một chỗ y như chỉ biết đứng chờ trong khi nước lụt dâng cao.
May thay, trời từ từ êm dần. Cơn giông kéo đến vùng Garlaban, mưa bớt mạnh, rơi thẳng và đều đặn…
Vách đá đột nhiên chấm dứt ở mỏm nhô ra tại Taoumé, ngập ngừng, chúng tôi rời vách đá chẳng khác gì em bé đang nắm chặt tay vịn của cầu thang mà phải bỏ ra tay ra để tập những bước đi đầu tiên một mình.
Lili đi phía trước tôi, mắt dán vào mặt đất và kiếm ra được con đường mòn mà nước mưa đã xoá mất dấu vết. Cây Wacholder đã mục với hai cành khô giơ ra trong sương mù đã cho chúng tôi biết là chúng tôi đi đúng đường. Chúng tôi tiếp tục đi, đi thật nhanh. Đôi giầy săn đan đẫm nước, kêu lục sục theo mỗi bước đi. Mái tóc lạnh ngắt rỏ nước, dán lên trên trán. Áo khoác, áo sơ mi dính chặt vào da….
Tất cả trở nên yên tĩnh, từ xa, chúng tôi nghe thấy tiếng sấm liên tục nhưng đã yếu dần. Lili dừng lại và lắng tai.
– “Cái gì chảy rì rào vậy, có phải là dòng suối vùng Escaouprès không?”
– “Không biết là nó chảy từ phía nào tới.”
Lili cố sức nghe ngóng:
“Tiếng rì rào đến từ phía phải”, Lili nhận xét một cách suy nghĩ. “Cũng có thể là La Garette hay Pas de Loup, nếu không tiếp tục đi, chúng ta sẽ bị cảm lạnh!”
Ép sát khuỷ tay vào người, hắn ta tiếp tục đi, tôi theo sát hắn bởi vì tôi cảm thấy sợ nếu không thấy cái bóng chập chờn của hắn trong sương mù.
Tuy vậy, sau khi đi được chừng mười phút, đột nhiên hắn dừng và quay lại.
-“Cứ tiếp tục lên cao nữa thì chúng ta đang ở không xa túp lều của Baptistin nữa đâu”
– “Nhưng sao không thấy ba cây Pistazien”
– “À, bạn có biết không, hôm nay làm sao mà nhìn thấy mọi thứ được.”
– “Nhưng mà những thứ chắn ngang đường đi thì dù có sương mù cũng phải để ý chứ.”
– “Tôi không để ý”, hắn nói.
– “Nhưng tôi đã để ý!”
– ” Có lẽ chúng ở phía dưới kia…”
Hắn lại tiếp tục đi, hàng ngàn dòng suối nhỏ chảy nhè nhẹ, róc rách bên cạnh chúng tôi. Một con chim màu đen giang cánh bay cách đầu chúng tôi khoảng mười thước. Tôi thấy rõ là chúng tôi đã lạc đường. Lili cũng biết thế nên dừng lại.
“Tôi tự hỏi”, hắn nói, “tôi tự hỏi…”
Rõ ràng là hắn không còn biết gì và cũng không thể làm gì hơn được, hắn nguyền rủa mọi thứ: sương mù, cơn mưa và cả thần thánh bằng những lời nguyền khủng khiếp của vùng Provence.
“Đợi một chút!”, thình lình tôi nói, “tôi biết rồi, bạn im đi !”
Tôi quay về hướng phải, đưa hai tay lên miệng làm ống loa rồi lên tiếng cầu cứu và lắng nghe. Một âm vang cầu cứu vọng lại một cách yếu ớt, tiếng vọng lần thứ hai lại càng yếu hơn nữa.
“Đây có lẽ là tiếng vọng của vách đá Escaouprès”, tôi nói, “gần như ở vùng dưới của Tête-Rouge.”
Bây giờ tôi đứng ngay lại và thét lên. Không có tiếng vang vọng trả lời. Tôi quay lại phía trái, tôi và Lili cùng hét lên một lúc.
Một tiếng vang vọng thật to trả lời ba lần: đó là tiếng vọng của Passe-Temps.
“Tôi biết chúng ta đang ở đâu rồi”, tôi nói. “Chúng ta đã đi hơi xa về phía trái, nhưng nếu cứ đi tiếp tục thì sẽ đến bờ rìa của vách đá La Garette. Đi với tôi!”
Tôi dẫn đường về phía phải. Màn đêm càng làm cho khó nhìn thấu qua sương mù hơn. Tôi cầu cứu những tiếng vọng quen thuộc và tìm sự giúp sức nơi tiếng vọng Escaouprès mà vì thương tình nên đã vang lên mỗi lúc một gần.
Và rồi chân tôi nhận ra một nơi có những viên đá tròn, trượt đi dưới đế giầy của tôi. Bây giờ tôi ra khỏi đường mòn và tin tưởng là mình đã nhận ra được một đám màu đen.
Tôi giơ thẳng hai tay ra và đi về phía trước; thình lình tôi nắm được những chiếc lá dầy của cây vả. Chúng tôi đang tiến đến túp lều của Baptistin; mùi chuồng cừu quen thuộc mà khi bị ướt lại càng nặng nề hơn. Điều này làm chứng tỏ, chúng tôi đã được cứu thoát.
Sương mù bao phủ núi đồi
Cơn mưa cũng công nhận, nó cũng ngừng hẳn.
Chúng tôi sung sướng quá và cũng hãnh diện không kém về cuộc phiêu lưu của mình, một đề tài để mà tường thuật lại một cách hào hứng! Khi chúng tôi tiến xuống triền đồi quá dốc của Redouneou, chúng tôi nghe thấy xa xa phía sau, tiếng kêu não ruột của một con chim.
“Chim Bachstelze”, Lili nói. “Nhưng chúng không ở lại đây đâu, chúng sẽ bay đi….”
Khó mà trông thấy rõ khi chúng xuất hiện từ trong sương mù thành một hình chữ V lớn. Vì sương mù mà chúng phải bay qua gần sát đầu chúng tôi, hướng về nơi có tiếng kêu não ruột…Chúng bay về nơi nghỉ hè mới.
Theo thói quen, chúng tôi đến nhà bằng cửa sau.
Trên lầu một, một ánh đèn leo loét chiếu ra làm cho những giọt sương mù đang nhảy múa trong mưa trở nên lóng lánh: Khi màn đêm buông xuống, mẹ tôi bao giờ cũng thắp sáng một cây đèn dầu, biểu hiệu cho ngọn lửa âu lo mà bóng thuỷ tinh đã bị nứt rạn vì những giọt mưa vừa qua rớt trúng.
Ngọn lửa sáng đang reo trong lò. Cha tôi và chú tôi đã mặc áo ngủ và đi đôi dép ở nhà, đang trò chuyện với Francois, trong khi quần áo săn của họ được trải ra trên mấy cái ghế để hong khô nhờ ngọn lửa.
-“Nhìn xem, chúng nó có bị lạc đâu!” cha tôi kêu lên một cách vui mừng.
-“Ồ, có gì đâu mà phải lo”, Francois nói.
Mẹ tôi sờ vào áo khoác của tôi và của Lili rồi kêu lên một cách hoảng hốt:
– “Chúng nó ướt nát! Ướt như bị rớt xuống biển vậy!”
– “Không sao đâu”, Francois nói một cách bình tĩnh. “Tụi nhỏ nó không sợ nước đâu, nhất là nước từ trên trời đổ xuống.”
Dì Rose chạy vội vã chạy từ trên lầu xuống, y như nhà đang bị cháy, trong tay ôm theo một mớ khăn lông và quần áo. Trong khoảnh khắc, chúng tôi đứng trần truồng trước lửa trong sự thích thú của Paul và sự ngượng ngập của Lili. Vì xấu hổ nên cậu bé nhà quê tìm mọi cách để trốn sau đám quần áo săn đang giăng ra. Dì Rose túm lấy hắn và chà sát hắn bằng một cái khăn lông rồi kéo, rồi xoay y như hắn là một món đồ vật không hồn. Mẹ tôi cũng làm với tôi giống như vậy.
Francois theo dõi sự việc một cách bình thản, nói: “Chúng nó đỏ như trái hoa hồng!” Và lại nói lần nữa: “Tụi nó khoẻ mà!”
Lili mặc bộ quần áo thuỷ thủ của tôi, trông hắn ta có vẻ lịch sự, trong khi tôi mặc chiếc áo khoác len đan của cha tôi, dài tới gối, chân mang đôi vớ của mẹ tôi chỉ với mục đích để giữ ấm.
Mẹ và dì lau mình cho Marcel và Lili
(phim Le Château de ma Mère)
Rồi chúng tôi được cho ngồi trước ngọn lửa và tôi bắt đầu thuật lại cuộc phiêu lưu của chúng tôi. Gay cấn nhất là lúc chim cú tấn công; tôi đâu để nó ngồi yên trên mỏm đá nên nó nhào xuống chúng tôi biết bao nhiêu lần. Với cặp mắt đổ lửa, với móng vuốt dương ra, nó đập cánh một cách đe doạ trên đầu chúng tôi. Trong lúc tôi diễn tả cảnh chim cú dương cánh, Lili bắt chước tiếng kêu của nó. Dì Rose há miệng nghe, mẹ tôi thì lắc đầu còn Paul lấy hai tay che mắt. Câu chuyện của chúng tôi thành công đến nỗi khiến chính tôi cũng cảm thấy sợ và những năm sau đó, tôi vẫn nằm mơ thấy bị chim cú tấn công và móc mắt.
Tiếp đó chú Jules thuật lại những hiểm nguy ngoạn mục mà các thợ săn gặp phải một cách bình tĩnh kiêu hùng.
Cơn giông đến khi họ đang ở giữa vực và như có phép lạ, họ đã tránh được những tảng đá khổng lồ liên tục từ trên cao rơi xuống theo họ. Sát bên họ, sét đánh cây hạt dẻ chẻ làm đôi ở Petite Baume. Ướt tới tận da và mệt đừ, thoát được những dòng nước đổ mỗi phút một mạnh hơn là nhờ trong lúc tuyệt vọng vẫn kiên trì để cắm đầu chạy. Chú Jules cũng thú thật, lúc đó chú không nghĩ là chú có thể chịu đựng nổi.
Nét mặt của chú không diễn tả nhiều nên mọi người cũng không đồng cảm được với vị thợ săn với bộ râu mép.
Francois đứng dậy và chỉ nói:
“Các ông còn muốn gì nữa! Mùa này thì như vậy, bây giờ thời tiết đâu còn đẹp nữa….cứ thế cho đến chủ nhật. Xin chào tất cả mọi người.”
Ông ta đi, dẫn theo Lili trong bộ quần áo thuỷ thủ để mẹ của hắn phải trầm trồ.
(Còn tiếp)
Lê-Thân Hồng-Khanh chuyển sang tiếng Việt từ:
Bản dịch tiếng Đức “Die Kindheit in der Provence” của Pamela Wendekind
Nguyên bản: Le Château de ma Mère của Marcel Pagnol
Hình ảnh: nguồn Net & phim Le Château de ma Mère
Ba đoạn phim tuần tự diễn ra vào mỗi chủ nhật, càng ngày càng hấp dẫn, thưa Cô, cảnh sắc thiên nhiên ở đoạn 3 này tuyệt đẹp, các tình huống bất ngờ lôi cuốn làm người đọc ( như đang xem phim ) hồi hộp, sợ hãi xen lẫn thích thú.
Đoạn này thật hấp dẫn cô ạ , hai thằng bé thật là song kiếm hợp bích , máu phiêu lưu mạo hiểm đang tuôn chảy trong huyết quản . đúng là con nhà thợ săn thứ thiệt ! Cảnh mưa gió trong thiên nhiên lạ và đầy nguy hiểm . Bài chuyển ngữ ý từ thật mượt như nguyên tác .Chúc cô vui khỏe nhé . Kính
Hoành Châu ~Châu Lãng Uyển (Gia đình C )
Cám ơn Hạnh và Hoành Châu đã theo dõi câu truyện dịch này. Chắc các em sẽ tự hỏi, sao không thấy toà lâu đài nào cả. Hãy kiên nhẫn vì càng ngày câu truyện càng hấp dẫn hơn nữa và toà lâu đài sẽ xuất hiện.
Chúc các em cuối tuần vui.