PHẠM THIÊN THƯ – THI NHÂN THIỀN VỊ

Ngày đăng: 13/11/2025 09:11:51 Chiều/ ý kiến phản hồi (0)

Thi sĩ Phạm Thiên Thư đã mở ra một “cõi thơ” riêng, rất lạ, đầy ấn tượng để chiêm nghiệm về cuộc sống, triết lý nhân sinh và những phẩm hạnh đời người. Bút danh của ông Phạm Thiên Thư, có lẽ cũng là một dự báo, tiên đoán và chính là cốt cách của Ông. Theo đó, “Thiên Thư” với hai nét nghĩa: “sách trời” (ngôn ngữ của trời) hoặc “Thiên” là ngàn, đơn vị số nhiều (hàng ngàn chữ nghĩa) đều phù hợp với ông. Thật vậy, đến nay ông có hơn hàng trăm ngàn câu thơ với những thi phẩm trữ tình, uyên bác, đầy trí tuệ và tư tưởng, cùng nhiều công trình nghiên cứu khác, và điều đặc biệt với những tác phẩm đồ sộ ấy, ông đều viết bằng tư duy vượt thoát, vô thức “..Vào câu vô thức cho tình ngàn thu” (trích Hát ru Việt sử thi). Ông như người lữ hành mãi miết đi tìm chính mình trên con đường trắc nghiệm thi văn với đời sống, để trở thành hiện tượng văn học, đặc biệt trong thế giới văn chương Việt và thật sự đã để lại cho đời một nét duyên rất lạ trong cõi nhân gian này.

Thi sĩ của chính mình

tác già và Pham Thiên Thư

Vốn từng quy y nơi cửa Phật, bên cạnh sự minh triết tự nhiên thấm nhuần từ tư tưởng, triết lý uyên thâm của Phật pháp, cùng với sự trải nghiệm, nuôi dưỡng tư duy, trí tuệ của mình đã giúp thi ca của ông thăng hoa, mang đậm nét thiền vị sâu sắc. Từ khi nhân loại nhận được những lời chia sẻ của Đức Phật cho đến nay, biết bao người đã kế tục và diễn giải những lời ấy thành câu chữ. Phật học ngưng đọng và lan tỏa xuyên qua tầng tầng kinh sách. Đã có nhiều bậc thức giả Đông – Tây đi vào thế giới kinh sách, lịch sử, tư tưởng, quan niệm, nhân vật..của Phật giáo; cũng có những người hiền lương hồn nhiên lạy và niệm Phật, sống giữ lòng lành theo các giới luật. Đạo phật bao dung nên có nhiều con đường để đến với Phật, mục đích cuối cùng giúp bản thân mình thấy được Phật tính của mình, nhìn thấu được “bản lai diện mục”.

Quả thực là từ cõi Phật, Phạm Thiên Thư đã có được “chủng tử”, khám phá cái tôi qua nghiệm sinh đường đời xa thẳm và cũng là nơi hành hương lớn nhất: trở về bản thể thi sĩ của chính mình. Từ đó, ông được kết “nhân duyên”, làm được những điều đáng nể là thi hóa kinh Phật, sáng tác những thi phẩm hay và đẹp thuộc diện hiếm hoi trong văn học Việt Nam. Ông đã diễn đạt các giáo lý vi diệu của Phật bằng ngôn ngữ của thi ca, giúp các độc giả đến với Phật pháp một cách tự nhiên, thuần thành nhất như chuyển Kinh Kim Cương thành tập thơ “Kinh Ngọc – Qua suối mây hồng”, Kinh Hiền Ngu thành tập thơ “Kinh Hiền Hội Hoa Đàm”,.. Đặc biệt, trong tập thơ từng đoạt giải nhất văn chương “Đoạn trường vô thanh”, qua câu chuyện hậu Kiều, ông đã khéo lồng ghép tư tưởng đạo Phật: khổ, không, vô ngã,..Đây có thể xem là tác phẩm viết tiếp Truyện Kiều thành công nhất, bằng tài hoa của mình, ông đã vượt thoát ra khỏi lối viết tượng trưng ước lệ của văn học trung đại, không dùng điển cố Trung Quốc nào mà vẫn thể hiện được nội tâm nhân vật một cách vô cùng tinh tế, sâu sắc.

Như ông đã từng nhận mình trở thành nhà thơ chỉ là chuyện..đột dưng, tự nhiên, không tính trước. Như một công án thiền, bất chợt đốn ngộ. Điều đó có nghĩa là ông không viết thơ bằng kỹ thuật, đường luật, mà là một sự vượt thoát, chiêu cảm, một trực giác siêu linh, vô thức, của cõi “thiên thư”! . Ông viết như một thiên hướng bẩm sinh và như một nhu cầu kinh qua cuộc đời mình. Do vậy, giọng thơ của ông rất nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, giản dị nhưng đầy minh triết, trong trẻo nhưng bàng bạc những ẩn ngữ trí tuệ. Ví như ở Huyền ngôn xanh ngôn ngữ rất đơn giản, nhẹ nhàng được kết tinh từ cuộc sống, trải nghiệm nhưng rất thấu hiểu phật pháp: “Có những loài hoa đẹp – không hương thơm – không phải vì thế mà mất đẹp. Có tấm lòng thiện mỹ – không ai hay – không phải vì thế mà chẳng dâng hương”. Thi văn của ông giản dị như đất, thăm thẳm như đại dương, mênh mông như bầu trời, ảo điệu như vũ trụ, đầy ắp các sinh thể. Ở đó, lý tính và logic như nhường chỗ cho hòa âm của tự nhiên. Một tự nhiên nguyên sơ, trong lành của hoa, mây, gió, trăng, sao, muông thú..của những Đạo ca, Động hoa vàng, Ngày xưa hoàng thị, Trại hoa đỉnh đồi,.. Thật vậy, cái uyên bác của trường quy, cái mỹ lệ của văn chương, cái hùng biện của ngôn từ, Phạm Thiên Thư đều đã trải, nhưng dường như tất cả không làm người thay đổi. Những trang viết của ông, ngay cả những thi phẩm trữ tình, hay tiếu liệu pháp (Từ điển cười), Từ điển Đời,.. vẫn luôn trong trẻo như nước suối nguồn, xanh biếc một tuệ giác uyên nguyên, sống động một nhịp đập của trái tim, từ bi, lân mẫn.

 

“Bất phụ Như Lai, bất phụ khanh”

Nhắc đến cuộc đời của thi sĩ Phạm Thiên Thư, cùng với những bản tình ca độc đáo trong thi phẩm của ông đã từng được cố nhạc sỹ tài hoa, uyên bác Phạm Duy phổ nhạc làm say đắm lòng người, tôi thường liên tưởng ông đến vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 – người  từng được mệnh danh “sinh vì Phật, sống vì tình” – Tangyang Gyatso (Thương Ưng Gia Thố – (1683 – 1706)). Ngài cũng là một trong những nhà thơ lãng mạn, phong khoáng nhưng chân thành sâu sắc nhất Tây Tạng với đôi câu thơ nổi tiếng: “..Thế gian nan đắc song toàn pháp/ Bất phụ Như Lai, bất phụ khanh”. (Thế gian nào có đôi đường vẹn/ Chẳng phụ Như Lai, chẳng phụ nàng). Cuộc đời và thơ ca của Vị “tình tăng” này đã từng là nguồn cảm hứng sâu sắc trong nhiều sáng tác phẩm thi văn và nghệ thuật. Như những tiểu thuyết đầy sắc thái truyền kỳ làm rung động, xuyến xao bao trái tim người mộ điệu: “Đức Phật và nàng” của Chương Xuân Di. Câu chuyện của Ngài, làm ta gợi nhớ đến ở xứ Tây Lương Nữ Quốc trong truyện Tây Du Ký – là một trong 81 kiếp nạn của thầy trò Đường Tăng trên đường đi Tây Thiên thỉnh kinh. Một tình tình yêu đầy ngang trái khi đứng giữa một Nữ Vương chưa từng biết yêu sẽ phải đối diện với cảm xúc rung động đầu đời của mình như thế nào và một người xuất gia như Đường Tăng. Cả hai đều mang trên vai trọng trách rất to lớn của đại sự, một bên là phổ độ chúng sinh, một bên là trị vì vương quốc, nhưng lỡ sa vào lưới tình thì phải chọn điều gì để tiếp tục?..Quả thật đó là một thử thách, là một vấn nạn của cõi đời. Còn nhớ những năm trước, cảm hứng phong tình này cũng đã tạo nên một làn sóng âm nhạc mạnh mẽ, trở thành “hiện tượng” với bài hát hơn 10 triệu lượt xem “Độ ta không độ nàng” được dịch từ phim ngắn hoạt hình giữa tình yêu của vị sư tăng và Quận chúa gây “bão” ở Trung Quốc,..Không bàn đến tính đúng sai của bài hát này cũng như các thiên tiểu thuyết trữ tình, diễm lệ đó, nhưng giúp ta có thể hiểu rằng bất cứ nơi đâu, vạn vật trên thế gian này đều có tình yêu, đều có sinh mệnh và nhân duyên không thể cưỡng cầu. Con người luôn bị tình yêu êm ái làm tổn thương nhưng vẫn một lòng hướng đến không hề hối hận. Trong hành trình cuộc đời, mỗi người đều có nhiều tao ngộ không thể tránh khỏi và có nhiều cách để lựa chọn. Có lẽ, đây là duyên phận mà triết lý phương Đông thường nói. Bởi lẽ “Gặp gỡ, là một kiếp nạn hạnh phúc, cũng là một nét đẹp sai lầm. Quên nhau, là một sự khởi đầu hoang mang, cũng là sự kết thúc trong trẻo” (Bạch Lạc Mai). Điều này, quả thật rất đúng với thi phẩm của Phạm Thiên Thư, dường như ông luôn đứng trước hình thái lưỡng nan của thế giới làm người, giữa thiêng liêng và trần thế, giữa thiêng và tục, giữa đôi bờ hư thực,..khiến thi ca của ông luôn mang lại cảm giác huyền ảo, duy mỹ, lãng mạn nhưng rất sang trọng, khôi nguyên và thánh thiện…

Th-S NGUYỄN HIẾU TÍN

 

 

 

 

 

 

 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác