Về Long Hưng viếng quê nhà Tả Quân Lê Văn Duyệt
Ngày 14/2/2020 tôi chạy xe Honda chở một người bạn về Long Hưng. Dễ lắm! từ Mỹ Tho theo đường Lê Thị Hồng Gấm xuôi về Bình Đức, Xoài Hột, qua cầu Kinh Xáng thì quẹo phải men theo bờ kinh chạy thẳng vô chừng 4 km sẽ thấy cổng khu di tich. Đường không xa, đi không khó, vậy mà tới bữa đó mới có dịp bước chân vào chốn này, một vùng trái cây xanh mát tựa mình vào con Kinh Xáng của xứ Long Hưng -Định Tường.
Gia Việt cũng dân gốc Định Tường mà! Quê hương là cái xứ mình đã sanh ra, đã lớn lên, có một tình thâm lâu dài, có mấy cái mả ông bà tổ tiên mình trơ trọi giữa quá khứ.
Thành ra nói Long Hưng là quê nhà của Tả quân Lê Văn Duyệt (1763 – 1832) là vậy. Gốc Quảng Ngãi thôi, thực ra Tả Quân là người Định Tường.
- Vài nét gợi cái xưa ngày xưa
Họ Lê khởi thủy từ ông Lê Văn Lương người làng Bồ Đề, huyện Mộ Hoa (Mộ Đức) xứ Quảng Ngãi. Ông Lê Văn Lương có một người con trai là Lê Văn Tánh có vợ là bà Trần Thị được 11 người con.
Ông Lê Văn Hiếu là con thứ bảy của ông Lê Văn Tánh. Ông Lê Văn Hiếu lấy vợ là bà Nguyễn Thị Ân sanh con trai là ông Lê Văn Toại. Bà Nguyễn Thị Ân qua đời ông Lê Văn Hiếu ở vậy nuôi con.
Năm 1760, ông Lê Văn Hiếu cùng vợ chồng con trai Lê Văn Toại rời làng Bồ Đề, về Phương Nam chọn vàm Trà Lọt làng Hòa Khánh, dinh Trấn Định -Định Tường-nay là Cái Bè phá đất cất nhà làm nơi định cư.
Năm 1764,tại vàm Trà Lọt có một trận bịnh dịch thời khí và ông Lê Văn Hiếu bị bịnh qua đời. Cũng năm đó cháu nội ông Hiếu là Lê Văn Duyệt được sanh ra ở vàm Trà Lọt.
Năm 1765, gia đình ông Lê Văn Toại rời vàm Trà Lọt di cư qua làng Long Hưng sanh sống và sanh đẻ thêm ba người con trai là Lê Văn Oai, Lê Văn Phong, Lê Văn Đến và hai người con gái là Lê Thị Năm, Lê Thị Hổ. Sanh sống ở Long Hưng rất thành công, ông bà Lê Văn Toại và Nguyễn Thị Lập (Không phải Phúc Thị Hào) siêng năng khẩn hoang, làm ruộng làm vườn nên có dư 32 mẫu ruộng, gia đình thuộc loại có của trong làng.
Cậu con trai Lê Văn Duyệt khi sanh ra bà Nguyễn Thị Lập mơ thấy con cưỡi cọp đen, theo truyền thuyết, Lê Văn Duyệt cầm tinh Hắc Hổ nên rất nóng tánh. Lê Văn Duyệt khi sanh ra bị khiếm khuyết về cơ thể. Đại Nam liệt truyện cho biết “ông mình thể ngắn nhỏ, tinh hãn, có tài lực”, và mắc bệnh “ẩn cung hình” từ lúc mới sanh.
Ẩn cung hình tức bộ phận sanh dục quá nhỏ và hình như con tằm không thể sanh con được. Nhiều nhà sử học nói ông không có bộ phận sanh dục nam, có người nói đó là tật “ẩn tinh hoàn”. Chữ “ái nam ái nữ” là chữ không chính xác với nhân vật lịch sử này.
Ẩn cung, ẩn tinh hoàn, tức là hai tinh hoàn bị ẩn trong bụng, về lâu dài nó triệt tiêu tinh trùng, làm nội tiết tố nam testosterone sẽ giảm đi. Nếu ngày nay thì khi sanh ra đứa trẻ sẽ được bác sĩ giải phẩu nâng tinh hoàn, kéo ra ngoài.
Tôi cũng không đồng ý với bạn nào nói Tả Quân người đồng tính. Sử Nguyễn chép Lê Văn Duyệt tuổi thơ không chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, đánh cá, đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe tập trận đánh giặc. Con nhà khá giả mà!
Tương truyền, từ năm 14, 15 tuổi ông Lê Văn Duyệt thường tự than: “Sanh ra ở đời loạn mà không dựng cờ nổi trống làm đại tướng, để công danh trên thẻ bạc, thì chẳng đáng làm mặt trai!”.
Năm 1780 trong đêm mưa gió, Tây Sơn truy sát chúa Nguyễn Phước Ánh đã chạy từ Gia Định về Mỹ Tho tới vàm Ông Hổ và ghe chèo bị mắc cạn. Ông Lê Văn Toại chèo ghe ra cứu chúa Nguyễn và tùy tùng đem về nhà mình trú tạm.
Sau thấy ông Duyệt lanh lẹ, cũng khỏe mạnh, chúa trả ơn gia đình họ Lê bằng cách nhận con trai họ là Lê Văn Duyệt cho đi theo ra Phú Quốc cùng đặng làm thái giám nội cung. Từ thái giám, ông được làm cai đội nội cung, rồi tham gia đánh trận. Dũng cảm và quyết đoán, ông đánh trăm trận trăm thắng. Nổi danh trận Thị Nại Qui Nhơn.
Đại Nam nhất thống chí nhận định về Lê Văn Duyệt như sau:
“… Duyệt là người thâm trầm, dữ tợn, chiến đấu giỏi. Võ công của Duyệt đứng hàng đầu, sau được phong tước Quận công… Sau đó, làm Tổng trấn Gia Định thành, dẹp loạn người Cao Miên là Tăng Kế, sau trông nom đào sông Vĩnh Tế, công việc xong xuôi được ban thưởng hậu…”.
Các bạn biết tình cảnh của Tả Quân khi xưa không?
Theo mô tả thì ông không có râu, giọng hơi chát, tức là âm hơi bổng, có âm nữ trong giọng nói, nội tiết tố nam testosterone hơi bị ít. Vậy mà làm tướng, chỉ huy vạn quân, hét ra lửa mà quân đi răm rắp thì ông rất giỏi và oai cỡ nào.
Tả Quân làm tướng mạnh bạo oai lẫm, sức khỏe hơn người. Ông dẫn đầu đi trước cầm quân ra rận, chỉ đâu lính dạ đó, dân bốn phương, láng giếng nghe danh “Quan Lớn Thượng”, “Cọp gấm Đồng Nai” đều sợ một phép.
Phải là người có ý chí, giỏi giang, một tấm lòng với quốc gia thì Tả Quân mới dấn thân vào sa trường và nổi lên như vậy.
Tháng 5 năm 1802 vua Gia Long lên ngôi phong ông làm Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, cùng với Lê Chất mang quân bình định Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn thì xong việc.
Từ 1813 đến 1816 ông lãnh chức tổng trấn thành Gia Định, kiêm trông coi luôn cả Bình Thuận và Hà Tiên. Đến năm 1816 ông được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi Thái Tử.
Lần thứ nhì lãnh chức tổng trấn thành Gia Định từ năm 1820 cho đến khi mất (1832). Tả quân lúc uy quyền, tuy chữ ít nhưng lòng người ai cũng kính phục, gọi ông là Ông Lớn Thượng, là Lê Thượng Công. Ông là người giỏi quân sự lẫn chánh trị, ngoại giao, kinh tế, là một vị nghiêm khắc, thanh liêm.
Dù quyền hành lớn, ông không hề hiếp đáp kẻ dưới, hoặc tìm mọi cách để tư túi riêng, lính của ông có kỷ luật, không hề phá phách, cướp bóc dân gian. Khi đi dẹp loạn ở nơi nào thì ông trừng trị quan lại sở tại tham nhũng, bức hiếp dân trước, sau phủ dụ,giúp dân an cư.
“Gia Định này thật có phước mới gặp được một Tổng Trấn như đại quan. Tôi ở Kinh Thành, ở Bắc Thành vào Gia Định thấy như đi qua một nước khác.
Ở dọc sông thì trên bến, dưới thuyền, ghe thuyền san sát, lúa gạo nghìn nghịt. Vải vóc, đồ thau, đồ đồng, đồ sứ, đồ gốm, thảo mộc quý, quế, trầm, hồi thật là không thiếu thứ gì. Trên đất liền, nhà cửa phố xá san sát, khang trang. Đường đi lại lát gạch, lát đá sạch sẽ mát mắt.
Cảnh dân theo đạo Thiên Chúa trốn chui, trốn nhủi như ở ngoài Bắc Thành, Kinh Thành, ngoài Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, vào đây không thấy. Cha truyền giáo vẫn đi lại bình thường trên đường phố. Tôi thật mừng. Mình làm quan thấy dân vui là mình vui. Làm quan chỉ biết vui phần mình thật đáng trách.” (Tiến sĩ Phan Thanh Giản viết)
Ngô Tất Tố nhận xét :
“Duyệt coi quân nghiêm ngặt, người nào hơi trái quân lệnh tức thì trị tội không hề khoan dung. Vậy mà đối với binh sĩ rất có ân tình, những kẻ đau ốm, bị thương, Duyệt săn sóc cẩn thận. Nhất là những ai chẳng may chết trận, Duyệt rất kính trọng và thương xót. Tính Duyệt ưa hát bội mà ở Gia Định trước kia chưa có… Khi làm Tổng trấn, Duyệt mới lập ra một gánh hát bội riêng của mình để thỉnh thoảng hát chơi…Nam Kỳ có nghề hát bội là tự bấy giờ.”
Năm 1822 một phái đoàn Anh Quốc do ông Crawfurd đến yết kiến Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, Crawfurd thuật lại như sau: “Đây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt, trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng.
Dinh tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông Hà. Nơi đây buôn bán sầm uất.
Dân xiêu tán tới đây được tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhứt nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành.
Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng Trấn rất nhân từ, tha thứ cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình.
Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ, tổng trấn biết được cũng bị phạt rất nặng.
Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp. Từ các nơi, dân đi thuyền theo các kênh rạch lên bán cho chúng tôi.
Nhìn dân chúng hân hoan vui vẻ, chúng tôi biết dân no đủ. Nhiều người rất kính trọng vị tổng trấn của họ.
Con người này ít học. Nhưng lạ lùng thay là có được cái nhìn cởi mở hơn những đại thần và cả nhà vua học rộng, làu kinh sử của Khổng Giáo.
Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định này trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng Biển Đông.”(Hết trích)
Sau khi Tả Quân mất được phong “Tá vận công thần đặc tấn Tráng võ tướng quân – Tả Quân đô thống phủ chưởng phủ sự, Thái bảo Quận Công.”
Sau 1802 vua Gia Long phong quý tộc cho tổ tiên Tả Quân như sau: -Ông Lê Văn Toại được vua Gia Long sắc phong Chưởng cơ Quyên thanh hầu tặng Thống chế. Vua Minh Mạng tặng Tráng Võ tướng quân, trụ quốc Đô thống, thụy là Cung Tinh.
– Bà Nguyễn Thị Lập được vua Gia Long ban Nhứt phẩm phu nhân, vua Minh Mạng tặng Tráng võ Tướng quân Trụ quốc Đô Thống Lê công Chánh thất, Nhứt phẩm phu nhơn, thụy là Trinh Thuận.
– Ông Lê Văn Hiếu được vua Gia Long truy tặng Quang Tấn Chiêu nghị tướng quân, Cm y vệ cai cơ Hiếu Thuận hầu, thụy Cương Chánh. Bà Nguyễn Thị Ân được tặng Tư Thục Cung Nhơn.
– Ông Lê Văn Tánh được tặng Quang Tấn hộ quân Võ lược tướng quân Cẩm y vệ cai đội Tính thiện hầu, thụy Hiệu Thuận. Bà Trần Thị Quý được tặng là Từ thiện nghi nhân.
Em trai Tả Quân Lê Văn Duyệt cũng là tướng của Gia Long, đó là Tả dinh Đô Thống chế Lê Văn Phong (1769-1824).
Năm 1818, Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách Lê Văn Phong làm Phó tổng trấn Bắc Thành, Tổng Trấn là ông Lê Chất
Năm 1824 con trai trưởng của Lê Văn Phong và là con thừa tự của Tả Quân Lê Văn Duyệt là Lê Văn Yến được vua Minh Mạng gả em gái là con gái thứ mười vua Gia Long là công chúa Ngọc Ngôn, ông Yến trở thành phò mã đô úy.
Thành ra Lăng Ông Bà Chiểu ở Gia Định -là nơi thờ ông Lê Văn Duyệt được người Tàu Chợ Lớn tôn xưng là “Phò Mã Da Da Miếu” , tức là miếu thờ cha ông phò mã.
2.Vụ án Lê Văn Duyệt
Vì bất đồng cách trị quốc với vua Minh Mạng nên ông vua này để bụng với Tả Quân Lê Văn Duyệt nhưng do Lê Văn Duyệt có quyền uy lớn trong triều đình nên vua Minh Mạng không làm gì được.
Nên hiểu Tả Quân là thủ lãnh thế lực Nam Kỳ thời đó, phe Nam Kỳ giàu có, nạp thuế, góp lúa gạo nhiều nhứt cho Huế.
Tả quân Lê Văn Duyệt được vua Gia Long tin tưởng giao như như phó vương Nam Kỳ tự trị, vua Gia Long nhờ dân Nam Kỳ mà trung hưng nhà Nguyễn, sống mấy chục năm ở Nam Kỳ nên vua hiểu bụng dạ người Nam Kỳ, cái tánh hảo sảng nhưng cũng rất tự do, Nam Kỳ tuy nhìn là dễ tánh nhưng thực sự rất khó, nguyên tắc rất chặc.
Thời của Tả Quân cai quản thì đất Gia Định-Nam Kỳ tự do kinh tế thị trường, doanh nhân ngoại quốc Tây -Tàu bán buôn, truyền giáo tự do. Thời Minh Mạng cương vực lãnh thổ Đại Nam bao trùm Lào và Cam Bốt, công của phe Nam Kỳ rất lớn vì góp của cải, lương thực vào chuyện đó. Tả Quân Lê Văn Duyệt là người đứng phía sau công trình đào kinh Vĩnh Tế, Thoại Ngọc Hầu chỉ là người coi.
Sanh thời vua Minh Mạng không sợ ai, ông nắm quyền tột đỉnh ở Huế nhưng lại cảm thấy phe Nam Kỳ có thể uy hiếp triều đình. Lịch sử tréo ngoe ở chổ khi thạnh quá thì sẽ suy.
Tánh Tả Quân cũng sân si dữ lắm!
Tả Quân Lê Văn Duyệt và tướng Lê Chất cùng phe, đối chọi với phe Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở Bắc Thành. Phe Gia Định mạnh nhứt vì ông Duyệt là phe làm ra tiền của, lúa gạo dồi dào, binh lính no đủ, rèn luyện hăng say, võ khí tối tân, triều đình cần Gia Định. Vì là lãnh tụ phe Nam Kỳ nên ông Lê Văn Duyệt hầu như công khai ra mặt ở vô số vụ đại sự, ông va chạm nhiều người và không được lòng tân quân là vua Minh Mạng.
Tả Quân Lê Văn Duyệt có tầm nhìn của một người Nam Kỳ cởi mở, lòng dạ thoáng, tầm nhìn xa. Thành ra chưa có vụ cấm đạo nào dưới thời ông khi ông còn sống.
Nhìn lại lịch sử Công giáo Nam Kỳ ta thấy thánh tử đạo ở Nam Kỳ rất ít, mà có hành hình là quan từ Bắc, Trung vô thực hiện, người Nam Kỳ chính là người cưu mang những giáo dân Công giáo chạy loạn vì bức đạo từ Trung Kỳ và Bắc Kỳ vô.
Thanh và lương sống chung xóm, Nam Kỳ không có khái niệm xóm đạo biệt khu như Bắc Kỳ.
Ðến ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (1832) Tả Quân Lê Văn Duyệt mất thì triều đình Huế ra tay “dẹp” tánh tự trị của Nam Kỳ, bắt đầu đánh vào cá nhân Tả Quân.
Vụ binh biến thành Phiên An của Lê Văn Khôi nổ ra và kéo dài từ năm 1833-1835. Huế dẹp được nhưng triều đình cũng một phen xấc bấc xang bang.
Cả thảy 1.831 người trong thành đều bị chém đầu và vùi xác chung trong một hố ở Đồng Tập Trận gọi là Mả Ngụy-Mả Biền Tru.
Tháng 11.1835, cuộc binh biến của Lê Văn Khôi bị dẹp xong, vua Minh Mạng luận tội Tả Quân Lê Văn Duyệt. Vua Minh Mạng ra chỉ dụ:
“Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bửa quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, chẳng cần gia hình chi cho uổng công. Vậy cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn cuốc bỏ núm mộ san bằng mặt đất và khắc đá dựng bia ở trên viết to mấy chữ: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ”.
Mồ mả của ông ở Bình Hòa (Bà Chiểu) bị san bằng, xiềng xích, mả người thân ông bị đục bia hết, phò mã Lê Văn Yến bị xử chết, con cháu họ Lê tứ tán, mai danh ẩn tích, đổi họ.
Bản án Lê Văn Duyệt được sách Đại Nam chính biên liệu truyện (Sơ tập, quyển 3) chép lại như sau:
“Đình thần nghị án để dâng lên, chỉ rõ những lời nói và việc làm bội nghịch (của Lê Văn Duyệt), buộc bảy tội đáng xử chém là:
1 – Dám sai người của mình, tự tiện đi Miến Điện để làm các việc ngoại giao (vốn là chức trách của triều đình).
2 – Xin được đưa tiễn thuyền của nước Anh Cát Lợi (tức nước Anh – NKT) về đến thành (Gia Định) để tỏ rõ là có quyền.
3 – Xin giết Thị vệ là Trần Văn Tình để khóa miệng người.
4 – Kháng sớ tâu xin giữ người đã được (triều đình) triệu về để bổ làm quan.
5 – Chứa riêng khống chỉ có đóng sẵn ấn của vua.
6 – Cậy bè đảng riêng mà xin tăng thọ cho Lê Chất.
7 – Gọi mồ cha của mình là lăng, đồng thời, khi nói chuyện với mọi người dám tự xưng mình là cô.
Vấn đề chót:
Mồ mả cha mẹ Tả Quân ở Long Hưng.
Chiều hôm đó tôi ghé về khu mộ cha mẹ Tả Quân, thiệt ngạc nhiên về quy mô của nó, chưa thấy khu mả mộ nào lớn như vậy, có thể lớn nhứt Nam Kỳ này, lăng hoàng gia họ Phạm ở Gò Công không bằng.
Khu mả lớn nhưng vắng lặng, im phắt giữa vùng vườn trái cây xanh um, gió từ sông Cửu Long thổi mát rượi, nắng vàng thẻ thọt gợi hoàng hôn, những người trong khu di tích mừng rỡ khi có khách ghé thăm, giọng Định Tường rặc.
Quá xá …..!
Con cháu đốt cho ông bà cố cây nhang, tri ơn Đức Tả Quân, nhìn thế sự trầm ngâm! Hỡi dòng lịch sử Miền Nam yêu thương, xin hãy trường tồn cùng con cháu!
Hỡi hào khí Nam Kỳ hãy sống lại!
Dân quanh vùng kêu cha mẹ Tả Quân là Ông Cố, Bà Cố, kêu Tả Quân là Ông Lớn.
Mộ Ông Cố và Bà Cố cách xa nhau chừng 10 mét, là hai mộ riêng, nền rất cao vì xưa vùng này nước lụt lên hàng năm, có hai lớp bửu thành bao bọc, có bình phong.
Đặc biệt núm mộ không phải dạng Miên Ngưu (Trâu nằm) mà là dạng mái nhà, tức là giống giống như núm mộ của vua …Gia Long và hòang hậu Thừa Thiên.
Tuy nhiên ông bà thân sanh, thân mẫu của Tả Quân qua đời trước vua Gia Long thì không thể nói Tả Quân bắt chước …lăng vua được.
Gần đó có mả của Tả Quân nhỏ hơn cha mẹ, nhưng đó là mả giả không có người, mả thật ở Bà Chiểu là nơi khi xưa vua Minh Mạng xiềng.
Sanh thời cha mẹ Tả Quân đều được vua phong chức và tước của quý tộc.
Ông Lê Văn Toại được vua Gia Long sắc phong Chưởng cơ Quyên thanh hầu tặng Thống chế, Minh Mạng tặng Tráng Võ tướng quân, trụ quốc Đô thống, thụy là Cung Tinh.
Bà Nguyễn Thị Lập được vua Gia Long ban Nhứt phẩm phu nhân, vua Minh Mạng tặng Tráng võ Tướng quân Trụ quốc Đô Thống Lê công Chánh thất, Nhứt phẩm phu nhơn, thụy là Trinh Thuận.
Bà nhứt phẩm phu nhân Nguyễn Thị Lập qua đời năm 1813. Đức Tả Quân dựng bia năm Giáp Tuất 1814, chữ khắc trên bia: Hiển tỷ Khâm sai Chương cơ Lê hầu Chánh thất Nguyễn phu nhơn chi mộ.
Năm1820 ông hầu tước Lê Văn Toại qua đời ,Tả quân Lê Văn Duyệt lập và dựng bia tháng hai năm Tân Tỵ (1821), khắc: Hiển khảo Vũ Huân Tướng Quân Khâm sai Chưởng cơ tặng Thống chế Lê hầu chi mộ.
Tả Quân khi ngồi ghế Tổng trấn Gia Định thành danh trấn oai quyền thì cha mẹ mất nên tự đứng ra xây mồ mả cho cha mẹ mình trên đất nhà.
Ngày xưa cả khu mả nằm giữa đồng trống nên rất khó kéo đất đá vô xây dựng, dân phu phải dùng ghe chở đá xanh, đá ong Biên Hòa về Mỹ Tho, sau đó cho ghe bầu chở vật liệu theo sông Tiền về Vĩnh Kim rồi đào mương, xe trâu kéo vật liệu tới chỗ xây dựng.
Sau thời gian họ Lê bị vua Minh Mạng xử tội, con cháu tứ tán, mồ mả hoang phế liêu xiêu không con cháu coi sóc.
Sau vua Thiệu Trị và nhứt là vua Tự Đức ra bản án trả lại sự thực cho Tả Quân, trả lại 32 mẫu đất hương hỏa cho họ Lê. Nhưng con cháu đã không còn ai, thời gian kéo dài sau đó cũng hoang lạnh.
Sau 1975 vô làm một cái nữa, đường Lê Văn Duyệt bị xóa sổ, vai trò Lê Văn Duyệt bị xóa trong sách sử.
Khu đất họ Lê ở Long Hưng bị hoang vu, 32 mẫu đất bị dân quanh vùng thẻo từ từ hết, ngày nay còn đúng 1 mẫu khu mồ mả .
Năm 2006, ông Lý Việt Dũng xuống khảo sát khu mộ. Ông đã dùng chuối chát bôi bia và dập giấy đặng tìm ra những chữ bị đục bỏ trên bia mộ và sau đó đặt làm hai tấm bia mới dựng lại cho Ông Cố,Bà Cố.
Bia của ông Lý Việt Dũng ghi mả của ông cố Lê Văn Toại :
“Tuế tại Tân Tỵ trọng xuân cốc nhựt, Hiển khảo chi mộ.
Tự tử Khâm sai Gia Định thành Tổng trấn, Chưởng Tả quân Vọng các công thần Bình Tây đại tướng quân Quận công Lê Văn Duyệt bái giám. ”
Và bia của bà cố Nguyễn Thị Lập ghi:
“Tuế tại Giáp Tuất trọng hạ nguyệt cát nhựt. Hiển tỷ Khâm sai Chưởng cơ Lê hầu chánh thất Nguyễn Phu nhân chi mộ.Hiếu tử Khâm sai Gia Định thành Tổng trấn Chưởng cơ tả quân Bình Tây tướng quân Quận công Lê Văn Duyệt lập”
Dân quanh vùng sau đó đã góp tiền xây tam quan, tường rào, tráng nền xi măng, làm nhà thờ của khu mộ này.
Tả Quân Lê Văn Duyệt là người đặc biệt của hào khí Nam Kỳ chúng ta.
Công lao của Tả Quân đối với người dân vùng Đồng Nai Cửu Long thật vô cùng to tát.
Đó là công phát triển Miền Nam, làm cho vùng này trở nên vô cùng trù phú với một nền an ninh hết sức vững chắc, làm cho dân Miền Nam được an hưởng hòa bình thạnh vượng, trong một xã hội trật tự nhưng cởi mở, tiến bộ.
Cha ông mình có được Nam Kỳ không dễ dàng gì.
Có dịp về Long Hưng mời các bạn ghé qua khu di tích này, đứng giữa đất trời Nam Kỳ đặng chiêm nghiệm, nhớ về ngày xưa, tựa hồ nghe tiếng hò tiếng lý, tiếng ngựa reo quân réo, tiếng cọp um vang một góc trời …để mà ta có thêm lý trí và hứng khởi để yêu và bảo vệ đất Miền Nam mình.
Và ta sẽ ý thức ngày nay, nhớ tiền nhân của mình để biết mình còn rưng rưng tình yêu xứ sở Nam Kỳ trong lòng dữ lắm .Hồn vía Nam Kỳ ơi xin hãy quay về!
NGUYỄN GIA VIỆT
