HẠNH ĐỘC CƯ
Xưa đức Phật dạy: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”. Nếu muốn tâm không phóng dật thì nên phòng hộ sáu căn cho chặt chẽ.
Trong nhà Phật, dù pháp môn tu nào, cũng phải chú trọng đến lục căn, vì từ lục căn có giao tiếp với lục trần mới sanh ra lục thức. Từ cơ bản đó, hành giả muốn bớt bị chi phối bởi ngoại cảnh, nên chọn đời sống độc cư.
Vậy độc cư là gì? Theo cái hiểu đơn giản, độc cư là ở một mình, sống một mình để tránh giao tiếp, đó là cách mà Phật dạy: Phòng hộ sáu căn chặt chẽ thì chỉ có hạnh độc cư là đệ nhất pháp.
Độc cư khác với biệt cư. Biệt cư tuy sống riêng biệt mà tâm ý vẫn lăng xăng, còn độc cư cho dù sống trong tập thể mà tâm ý độc lập, không bị chi phối, không thất niệm bởi ngoại cảnh.
Đời sống tập thể trong chốn Thiền môn khó tránh khỏi giao tiếp; ngay cả tín đồ muốn thủ hộ 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) cũng phải hạn chế việc nói năng, suy nghĩ. Khi 6 căn hoạt động thì tạp niệm khởi lên, một khi tạp niệm liên tục sanh khởi là căn bản cho việc phân tâm, đưa đến loạn tâm.
Người thích nói năng, lăng xăng đủ thứ thì khó thực hiện hạnh độc cư; nơi đây ta đề cập đến hành giả thực hiện hạnh độc cư cần thực hiện những bước cơ bản như:
Không nên ăn uống phi thời.( tức ngoài bữa chính không ăn uống linh tinh)
Không nên ngủ nghỉ phi thời.
Không nên phiếm luận chuyện không liên quan đến hạnh tu.
Luôn nghiêm túc đi đứng nằm ngồi theo tiêu chuẩn về hạnh độc cư.
Nếu hành giả vi phạm các tiêu chuẩn trên, xem như đã phá hạnh độc cư.
Ý thức hạnh độc cư giúp đưa hành giả vào Thiền định, nên Đức Phật từ giả năm anh em Kiều Trần Như đến trú dưới cội Bồ đề cho đến khi chứng đắc.
Như vậy độc cư không chỉ sống một mình, sống một mình chỉ là cơ địa vật lý, độc cư quan trọng ở tâm thức, cho dù sống giữa chợ đời mà hành giả vẫn giữ được tánh thanh tịnh, tâm ly trần cảnh vẫn gọi là độc cư. Sống một mình nơi núi thẳm rừng sâu mà tâm vẫn còn lo cái ăn cái mặc, lo sợ muôn thú, nghĩ đến sống chết vô thường, nghĩ đến thân bằng quyến thuộc…thì thân độc cư mà tâm chưa độc cư.
Ngoài độc cư thân và tâm, còn phải hành trì giới luật, vì Giới là căn bản của Định, nhờ định mà có Tuệ. Muốn giữ được giới hành giả phải thoát ly mọi ham muốn, kể cả ham muốn tu chứng.Hành giả một mực chuyên sâu thiền định, không bận tâm kết quả của việc hành trì, còn bận tâm thì thân độc cư mà tâm vẫn chưa độc cư, đó cách mà nhà Thiền gọi là “ly dục”.
Khi đức Phật đến thăm ba vị sống ẩn cư trong rừng, ngài hỏi:
“- Này các Anuruddha, như thế nào các ông sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm?”.
“- Này Anuruddha, các Ông có sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần không?”.
Ông A Na Luật đáp:.
“-Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân, nhưng giống như đồng một tâm.
Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm”.
“- Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần”.
Cả ba Tôn giả Nandiya, A Na Luật, và Kimbila cũng đều đáp giống nhau.
Khi đức Phật nhìn thấy các thầy Tỳ Kheo sống trong một tập thể mà vẫn giữ được lặng yên do tâm ý không bị chi phối ngoại cảnh, nên ngài khen:
“Một hội chúng đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời”.
Lời vấn đáp trên giữa Phật và đệ tử cho ta thấy, tuy sống chung, thân và tâm không chướng ngại nhau, hòa hợp như một, không khởi ý niệm phân biệt,vẫn lặng lẽ, thì vẫn là độc cư, nghĩa là không xen vào tạp ý phân biệt bất thiện, không liên hệ bên ngoài không liên quan đến việc tu.
Đức Phật hỏi tiếp các ông sống độc cư trọn vẹn như vậy các ông có làm chủ sinh, già, bệnh, chết chưa?
“- Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, các Ông có chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, sống thoải mái, an lạc không?”.
Ông A Na Luật trình bày kết quả sự tu tập của mình trong khi sống trọn vẹn hạnh ĐỘC CƯ như vậy
***
Người sống độc cư rất ít nói, chỉ nói những gì cần thiết, sống đơn giản từ tâm thức đến vật chất.Luôn kiểm soát 6 căn, bởi vì “mắt thấy sắc thường hay bận bịu.Tai thích nghe những điệu âm thanh…” thoát khỏi lo âu, giận hờn, nóng nảy, khó chịu…Do 6 căn giao tiếp 6 trần sanh ra 6 thức gọi là căn trần thức tổng cộng 18 giới, xâu chuỗi 18 hột lần tay từ ý đó mà thành.
Không độc cư thì khó mà nhập định, đã sống đúng tiêu chuẩn độc cư thì ngồi nằm đi đứng đều an trú trong nhiếp tâm.Tâm hành giả luôn tĩnh lặng an nhiên.
“Quá khứ không truy tìm
Quá khứ đã qua rồi”.
Tương lai chưa biết chắc
Tương lai không vọng tưởng
“Chánh Niệm Tĩnh Giác đây,
Tuệ tri quán Vô Lậu”.
Đây là cách để trụ tâm, khỏi chạy theo trần cảnh.
Hành giả đôi lúc đánh mất ý thức, hành xử theo thói quen do vô thức chủ động, cứ tưởng tâm thanh tịnh, nhà Thiền gọi là thất niệm.Thất niệm là không nhớ mình đang làm gì, để vọng tưởng suy nghĩ lung tung, hoặc hành động như một tập quán được an định, lúc đó tâm đã duyên trần cảnh sanh ra thất niệm.Một khi tâm đã định thì ngoại cảnh khó làm tâm giao động: “Không động không rung chuyển”.
Nhờ hạnh độc cư mà hành giả kiểm soát bao vọng tưởng từ tiềm thức hiện ra. Càng tĩnh lặng càng xuất hiện những hạt giống bất tịnh tích lũy lâu đời để hành giả nhận diện chuyển hóa.Nhờ tâm định mà có tỉnh thức, người có tỉnh thức luôn hướng nội nên an nhiên, thanh thản; người luôn hướng ngoại năng lượng bị suy hao, lo nghĩ nhiều thì hao thần, nói nhiều bị tổn khí, cảm thấy mệt mỏi, thiếu sinh lực.
Không giao kết bè bạn bàn chuyện nhảm nhí vô bổ
Dù sao ẩn cư nơi thanh vắng vẫn có lợi hơn phồn hoa đô hội.
Theo kinh nghiệm của các chân sư tiền bối, người sống độc cư phải ít nói chuyện, chỉ nói khi cần thiết.sống riêng, làm việc riêng cho đến giai đoạn tưởng chừng không làm gì hết mà vẫn làm rất nhiều cho nội tâm mà đạo gia gọi là “vô vi vô bất vi”
- Tránh nói chuyện tào lao, nhảm nhí;
- Tránh kết tình nghĩa bạn bè;
- Không nghe chuyện người khác;
- Nên tịnh khẩu (tịnh khẩu là ít nói, nếu nói thì nói lời hữu ích có lợi)
Hạnh Độc Cư là bí quyết thành công của Thiền định, nó giúp tránh giao tiếp vô bổ, tâm không bị phân tán, mọi hạt giống xấu ẩn tàng trong tiềm thức lộ rõ.
Ngày nay chùa nhiều, tu sỹ đông nhưng hạnh tu và sở đắc chưa đủ tạo dấu ấn cho Phật giáo trong xã hội. Trái lại tuy chỉ có vài vị mang học vị cao, địa vị lớn, có tiếng tăm lại là người làm mất thanh danh cho Phật giáo, để Tôn giáo bạn dạy khôn một cách nhục nhã cũng vì chưa ly dục, ly ác pháp, tâm chất chứa hơn thua, đố kỵ; cũng do không thủ hộ 6 căn, không biết độc cư nội tâm, phải chăng Phật giáo đang suy tàn vì đa phần thiếu hướng nội; đồng thời có ai đó miên mật nhiệt tâm hướng nội độc cư lại bị lên án???
Người tu cần tu đến nơi đến chốn, làm sáng tỏ Phật pháp qua cách sống của mình, khiến cho Phật pháp được xương minh. “Người tu cầm chừng không có ích cho mình, cho người, mà còn có hại cho tôn giáo. Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”.
Hạnh độc cư không những giúp hành giả tiến vào chánh định mà còn sanh ra phước vô lậu, nên kinh Đọc cư lý tưởng đức Phật nói:
“Chúng ta không thể nào điều đình với cái chết đã thu hút vô số người, nhưng kẻ nào an trú như trên một cách tinh tấn, ngày đêm không mệt mỏi, thì kẻ ấy bậc Thánh gọi là“Người Yêu Thích Hạnh Độc Cư Lý Tưởng.”
MINH MẪN
23/8/2025