Nói đến chữ TƯƠNG là người ta nghĩ ngay đến TƯƠNG TƯ 相思 là Nhớ nhau; và hễ nói đến TƯƠNG TƯ là người ta cũng nghĩ ngay đến trai gái hai bên thương yêu và nhớ nhau đến sinh bệnh, gọi là BỆNH TƯƠNG TƯ, là một cái bệnh trầm kha, nên thơ, đáng yêu và dai dẳng đến không có một lương y nào có thể chửa khỏi được cả ! Nhưng nếu chỉ có một bên thương nhớ phía bên kia; Nam thương nhớ nữ hay nữ thương nhớ nam thì là ĐƠN TƯ 單思, chớ không thể nói là TƯƠNG TƯ được. Vì Theo “Chữ Nho… Dễ Học” TƯƠNG 相 có nghĩa là “Nhau”, như : Tương Thân, là Thân nhau; Tương Ái là Yêu nhau; Tương Tư là Nhớ nhau… Nên phải cả hai bên cùng thương yêu tưởng nhớ đến nhau thì mới gọi là TƯƠNG TƯ được
! Nhưng trong “Tập quán Ngôn ngữ” theo thói quen sử dụng hằng ngày mà mọi người đều chấp nhận; Hễ thương nhớ ai thì đều có thể nói là TƯƠNG TƯ người đó được cả, như :
– Hắn đang “Tương Tư” nàng nào đó.
– Bộ mày đang “Tương Tư” ai hả ?
– Chàng ta đã “Tương Tư” cô ả đó rồi !
Không phải chỉ có giới bình dân, mà cả trong văn chương thơ phú cũng đã quen dùng từ TƯƠNG TƯ để chỉ sự nhớ nhung đến người mình yêu dấu, như thi sĩ nổi tiếng thời Tiền chiến Nguyễn Bính đã viết :
Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của Trời,
TƯƠNG TƯ là bệnh của tôi yêu nàng !
… và thi sĩ Xuân Diệu với hai câu thơ toàn thanh bằng trong bài thơ Nhị Hồ là :
Sương ngưng theo trăng ngừng lưng trời,
TƯƠNG TƯ nâng hồn lên chơi vơi !…
Ngay cả trong văn học cổ, trong Đường Thi cũng thế. Dưới đây là bốn câu thơ trong bài “Trường Tương Tư” của Thi Tiên Lý Thái Bạch :
…香亦竟不滅, …Hương diệc cánh bất diệt,
人亦竟不来。 Nhân diệc cánh bất lai.
相思黄葉落, Tương Tư hoàng diệp lạc,
白露點青苔。 Bạch lộ điểm thanh đài !
Có nghĩa :
… Mùi hương chẳng dứt mãi còn,
Người đi biền biệt mõi mòn ngóng trông.
Tương Tư lá rụng đầy sân,
Sương đêm nhẹ điểm trắng ngần rêu xanh !
… và hai câu rất hay trong bài “Thu Phong Từ” cũng của Thi Tiên Lý Bạch là :
相思相見知何日, Tương Tư Tương Kiến tri hà nhật,
此時此夜難為情。 Thử thời thử dạ nan vi tình.
Có nghĩa :
Nhớ nhau, gặp nhau biết ngày nào
Đêm nay là lúc nao nao hàm tình !…
Ở cuối truyện Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, người đọc thấy tội nghiệp cho Quách Tương nữ hiệp nhìn theo bóng dáng của Thần Điêu Đại Hiệp Dương Quá và Tiểu Long Nữ đi xuống núi Hoa Sơn trong cảnh lá thu rơi rụng rạt rào mà nước mắt lưng tròng và miệng thì lẫm nhẫm ngâm câu :”Tương Tư Tương Kiến tri hà nhật…
TƯƠNG TƯ 相思 là Nhớ đến nhau; TƯƠNG KIẾN 相見 là Thấy nhau, là Gặp nhau. TƯƠNG VẤN 相問 là Hỏi thăm nhau, như hai câu thơ rất nổi tiếng trong bài “Phù Dung Lâu Tống Tân Tiệm” của Vươg Xương Linh :
洛陽親友如相問, Lạc Dương thân hữu như TƯƠNG VẤN,
一片冰心在玉壺. Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Có nghĩa :
Thân hữu Lạc Dương như có hỏi,
Bình ngọc tuyết băng một tấm lòng.
Thi vị hơn nữa là nhóm từ TƯƠNG ÁNH HỒNG 相映紅, chỉ hoa đào và mặt của người đẹp như cùng soi rọi nhau và cùng hồng lên một cách đáng yêu trong vườn hoa đào, như trong bài “Đề Đô Thành Nam Trang” của chàng Thôi Hộ :
去年今日此門中, Khứ niên kim nhật thử môn trung,
人面桃花相映红。 Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
人面不知何處去, Nhân diện bất tri hà xứ khứ ?
桃花依舊笑東風。 Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Có nghĩa :
Năm ngoái hôm nay cũng cửa này,
Mặt người hoa đẹp má hây hây,
Mặt người nay biết về đâu nhỉ ?
Như trước hoa đào vẫn nở đây !
Trong Truyện Kiều, sau khi hộ tang chú ở Liêu Dương, Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều, thì “Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa“… và…
Trước sau nào thấy mặt người,
Hoa Đào Năm Ngoái còn cười gió đông.
(Bấm vào link dưới đây để nghe nhạc)
https://www.youtube.com/watch?v=w78w4zdI4VY
TƯƠNG NGỘ 相遇 là Gặp nhau; TƯƠNG KIẾN 相見 là Thấy nhau, TƯƠNG THỨC 相識 là Quen biết nhau, nên BẤT TƯƠNG THỨC 不相識 là không quen biết nhau, như trong bài “Hồi Hương Ngẫu Thư” của Hạ Tri Chương, một trong Ẩm Trung Bát Tiên, là các bạn rượu của Thi Tiên Lý Bạch :
少小離家老大回, Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,
鄉音無改鬢毛衰。 Hương âm vô cải mấn mao suy.
兒童相見不相識, Nhi đồng Tương Kiến bất Tương Thức
笑問客從何處來? Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ?
Có nghĩa :
Trẻ nhỏ xa nhà, già trở lại,
Giọng quê còn đó, tóc như mây.
Nhi đồng gặp gỡ không quen biết,
Cười hỏi nơi nào khách đến đây ?
TƯƠNG TRI 相知 là Hiểu nhau, là biết rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc; như Thúy Kiều và Kim Trọng hiểu rõ lòng dạ của nhau mà “Đem tình cầm sắc đổi ra cầm kỳ” khi “Kim Kiều tái họp” vậy :
Mấy lời tâm phúc ruột rà,
TƯƠNG TRI dường ấy mới là TƯƠNG TRI.
Chở che đùm bọc thiếu gì…
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay !
TƯƠNG PHÙNG là gặp gỡ nhau. Nhớ hồi nhỏ, hay nghe bà con lối xóm nói… Nho chơi với nhau là :
Hữu duyên thiên lý…ăn Tương Hột,
Vô duyên đối diện… bát Tương Tàu !
Đến khi đi học chữ Nho với ông Thầy Thừng ở trong chùa rồi, mới biết đó là hai câu :
有緣千里能相遇, Hữu duyên thiên lý năng TƯƠNG NGỘ,
無緣對面不相逢。 Vô duyên đối diện bất TƯƠNG PHÙNG !
Có nghĩa :
– Nếu có duyên thì ngàn dặm cũng đưa đẩy để gặp nhau được, còn nếu…
– Không có duyên với nhau thì dù cho có ở ngang mặt nhau vẫn không thể gặp gỡ nhau được.
Có duyên, ngàn dặm gặp nhau,
Không duyên, đối diện khó chào nhau luôn !
Năm Thiên Bảo thứ 8 đời Đường Huyển Tông, thi nhân Sầm Tham 岑参 phụng chỉ ra miền Tây vực để làm Mạc phủ cho Tiết Độ Sứ Tây An. Trên đường ra ải Dương Quan để đến vùng biên tái, tình cờ gặp được sứ giả hồi kinh là bạn đồng liêu. Nỗi mừng biết lấy chi cân, bèn làm bài thơ tứ tuyệt 逢入京使 PHÙNG NHẬP KINH SỨ (Gặp sứ giả trở về Kinh sư) sau đây để gởi về thăm gia đình :
故園東望路漫漫, Cố viên đông vọng lộ man man,
雙袖龍鐘淚不乾。 Song tụ long chung lệ bất can.
馬上相逢無紙筆, Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
憑君傳語報平安. Bằng quân truyền ngữ báo bình an !
Có nghĩa :
Vườn xưa diệu dợi mõi mòn trông,
Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
“Bình an” nhờ báo kẻo nhà mong !
Mã Thượng Tương Phùng 馬上相逢 là gặp nhau trên lưng ngựa, nên không có giấy viết gì cả, chỉ nhờ bạn báo lại cho người nhà biết là mình vẫn “Bình An” mà thôi !
逢入京使 PHÙNG NHẬP KINH SỨ
Trên đây là những chữ TƯƠNG vui buồn lẫn lộn, nhưng lại đầy thi vị với tình người một cách nên thơ. Còn có những chữ TƯƠNG lạnh lùng sắt máu… như Huynh đệ TƯƠNG HẠI 兄弟相害 (Anh em hại nhau), Cốt nhục TƯƠNG TÀN 骨肉相殘 (Ruột thịt mà tàn sát lẫn nhau)… Như anh em của Tào Phi và Tào Thực con của Tào Tháo…
Sau khi lên ngôi là Ngụy Văn Đế, nhưng vẫn còn ganh tài của người em, Tào Phi mới nói với Tào Thực rằng : “Ai cũng bảo là văn tài của nhà ngươi giỏi hơn ta, vậy ta hạn cho ngươi trong vòng bảy bước phải làm xong một bài thơ, nếu không được, sẽ trị tôị khi quân. Tào Thực xin đề, thì Tào Phi bảo là : Nói về Anh Em mà không được dùng từ anh em trong bài thơ. Đoạn bắt đầu bước đi và đếm, khi vừa đúng 7 bước thì Tào Thực cũng vừa cất tiếng ngâm :
煮豆燃豆萁, Chữ đậu nhiên đậu cơ,
豆在釜中泣. Đậu tại phủ trung khấp.
本是同根生, Bổn thị đồng căn sanh,
相煎何太急 ?! TƯƠNG TIỄN hà thái cấp ?!
Có nghĩa :
– Lấy vỏ đậu làm củi để nấu đậu. Nên …
– Đậu mới than khóc ở trong nồi. Rằng…
– Vốn dĩ chúng ta cùng chung một gốc rễ sinh ra.
– Đốt nấu lẫn nhau (TƯƠNG TIỄN), sao mà nhẫn tâm làm vậy ? !
Củi đậu đem nấu đậu,
Đậu than khóc trong nồi,
Cũng cùng chung một gốc,
Nấu nhau đành hỡi ôi !
Tào Phi nghe xong bài thơ, rất xúc động, từ đó về sau, không còn có ý muốn giết hại em mình nữa !
Bài thơ 7 bước ( Thất bộ Thi 七步詩 ) của Tào Thực
Tương tự, trong văn học sử Việt Nam ta cũng có câu truyện như sau :
Dưới thời Tự Đức, Nguyễn Phúc Hồng Bảo 阮福洪保 (1825-1854), hay Hường Bảo; là con trưởng vua Thiệu Trị, nhưng không được truyền ngôi. Sau hai lần mưu sự (1851 và 1854) để giành lại ngôi vị không thành, ông bị giam và chết thảm trong ngục. Người đương thời cho là vua Tự Đức có ý giết anh để trừ hậu hoạn. Sau đó, nhân một buổi ngự thiện với quần thần, Tự Đức đang dùng cơm vô ý cắn phải lưỡi, bèn nổi hứng lấy đầu đề “Răng cắn Lưỡi” ra cho đình thần làm thơ, nhưng trong thơ không được dùng chữ “Răng” chữ “Lưỡi”. Nguyễn Hàm Ninh 阮咸寧 ( 1808-1867) là một danh sĩ trong lịch sử Văn học Việt Nam thời nhà Nguyễn, dâng lên một bài tứ tuyệt như sau :
Sinh ngã chi sơ, nhĩ vị sinh, 生我之初爾未生,
Nhĩ sinh chi hậu, ngã vi huynh. 爾生之後我為兄。
Như kim cộng hưởng trân cam vị, 如今共享珍甘味,
Hà nhẫn TƯƠNG THƯƠNG cốt nhục tình ? 何忍相傷骨肉情?
Có nghĩa :
“Lưỡi nói với Răng” rằng :
Khi ta sinh ra mi chưa sinh,
Mi sinh sau ta, ta là huynh.
Nay cùng chung hưởng đồ ngon ngọt,
Sao nở tổn thương cốt nhục tình ?!
“Hà nhẫn TƯƠNG THƯƠNG 相傷 cốt nhục tình ?” Có nghĩa : “Sao nở nhẫn tâm làm Tổn Thương tình cốt nhục làm vậy?”. Vua Tự Đức xem thơ xong, khen hay, thưởng cho mỗi câu một lạng vàng vì lời thơ qúa hay, nhưng lại phạt mỗi câu một roi vì ý thơ có ẩn ý xỏ xiên phạm thượng (Không chém đầu là may lắm rồi !).
Vua Tự Đức và Bia mộ của danh sĩ Nguyễn Hàm Ninh
Ngoài các từ TƯƠNG trên đây, trong cuộc sống hằng ngày ta còn thường gặp các từ TƯƠNG có nghĩa :
* Giống nhau như : TƯƠNG ĐỒNG 相同 (như nhau), TƯƠNG ĐƯƠNG 相當 (ngang nhau), TƯƠNG TỰ 相似 (giống nhau)…
* Khác nhau như : TƯƠNG PHẢN 相反 (ngược nhau), TƯƠNG SAI 相差 ( Xê xích nhau), TƯƠNG DỊ 相異 (khác biệt nhau)…
* Bằng nhau như : TƯƠNG ĐẲNG 相等 (ngang bằng nhau), TƯƠNG ĐỐI 相對 (ngang ngửa nhau), TƯƠNG TỈ 相比 (so sánh nhau)…
TƯƠNG TRUYỀN 相傳 là những điều được truyền tụng nhau trong dân gian. Và nếu chữ TƯƠNG 相 được chấm thêm 3 chấm Thủy 氵thành 湘 thì sẽ là giòng TƯƠNG GIANG 湘江 (sông Tương) nổi tiếng trong văn học với các câu :
君在湘江頭, Quân tại Tương Giang đầu,
妾在湘江尾。 Thiếp tại Tương Giang vĩ.
相思不相見, Tương tư bất tương kiến,
同飲湘江水。 Đồng ẩm Tương giang thủy.
Có nghĩa :
Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương.
Cùng nhớ nhau mà cùng chẳng gặp được nhau, mặc dù…
Hai ta cùng uống chung một dòng nước của sông Tương.
Diễn Nôm :
Đầu sông Tương ngẩn ngơ chàng đợi,
Cuối sông Tương mòn mõi thiếp trông.
Nhớ nhau lòng ngẩn ngơ lòng,
Đều cùng uống nước bên dòng sông Tương…
Đi vào văn học cổ Việt Nam ta thì SÔNG TƯƠNG là biểu tượng của một dòng sông thương nhớ nhau, chớ không phải là một dòng sông có thật. Như khi đã cùng nhau hẹn ước, nhưng lại không có dịp để gặp gỡ nhau, cụ Nguyễn Du đã diễn tả tình trạng thương nhớ nhau của Kim Kiều như sau :
SÔNG TƯƠNG một dãi nông sờ,
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.
… Và SÔNG TƯƠNG lại đi vào dòng tân nhạc thời Tiền Chiến với ca khúc nhớ thương lãng mạng bất hủ “AI VỀ SÔNG TƯƠNG” rất nổi tiếng của nhạc sĩ Thông Đạt (Văn Giảng) với lời ca trữ tình gợi cảm :
Ai có về bên bến SÔNG TƯƠNG…
Nhắn người duyên dáng tôi thương…
Bao ngày ôm mối tơ vương…
(Bấm vào link dưới đây để nghe nhạc) :
https://www.youtube.com/watch?v=IwfFZh0FEZM
Trên đây là TƯƠNG trong văn chương âm nhạc, còn trong dân gian thì TƯƠNG là TƯƠNG CHAO. TƯƠNG 醬 là món ăn bình dân được làm và ủ bằng đậu nành, thành một chất sền sệt vừa mặn vừa ngon vừa rẻ, lại không có dầu mỡ nên những người ăn chay ăn lạt đều thông dụng, và từ ĂN CHAY còn được gọi thế thân là ĂN TƯƠNG. “Hôm nay tôi ĂN TƯƠNG, có nghĩa là Hôm nay tôi ĂN CHAY đó !” Vì là món ăn mặn để ăn cơm, nên TƯƠNG không thể thiếu ở những bữa cơm nhà nghèo kèm với các loại dưa leo, rau lang, rau quế, rau muống… Nhớ năm xưa, lúc còn học lớp Đồng Ấu thầy giáo đã cho học một bài Học Thuộc Lòng (dường như là của nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải ?!) như sau :
Rau muống mọc ở hồ ao,
Tuy thân hèn mọn tự hào rằng hay.
Quanh năm cung phụng món nầy,
Cho nhà nghèo khó bữa rày bữa mai.
Nhà giàu thịt cá ăn hoài,
Nghèo thì rau muốn cũng hai bữa thường.
Giàu thì mỹ vị cao lương,
Nghèo thì ra muống chấm TƯƠNG kém gì !?…
Như trên đã nói TƯƠNG 醬 là chất lỏng sền sệt, khi là chất lỏng đậm đặc thì chữ TƯƠNG 漿 được đổi thành Bộ Thủy 水 bên dưới, nên QUỲNH TƯƠNG 瓊漿 là một loại chất lỏng đậm đặc có màu sắc lóng lánh như ngọc QUỲNH, và QUỲNH TƯƠNG TỬU 瓊漿酒 là một loại rượu được ủ bằng các loại trái cây lên men mà thành, là rượu “cóc-tai” (cocktail) nên vừa đậm đặc, vừa lóng lánh màu sắc, vừa thơm ngon… mà ngày xưa chỉ có các nhà quyền quý và thần tiên mới thường uống mà thôi. Như trong truyện “Bùi Hàng gặp Tiên với tích Lam Kiều” như sau :
Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 và Bùi Hàng 裴航
Theo sách Thái Bình Quảng Ký 太平廣記, quyển 50: Đời Đường Mục Tông (795-824), năm Trường Khánh có Tú tài Bùi Hàng 裴航 lai kinh ứng thí, nhưng thi rớt. Buồn vì vô tích sự nên định đi du ngoạn Tương Dương một chuyến để giải khuây. Khi đến bến để thuê thuyền thì chỉ còn một khoang thuyền nhỏ, khoang chính của thuyền đã có một phu nhân thuê rồi. Mặc dù có rèm sáo che chắn, nhưng vì ở chung trên một chiếc thuyền, lúc lên xuống ra vào, khi gió động rèm châu, Bùi Hàng cũng lén ngắm nhìn dung nhan của vị phu nhân chung thuyền. Chàng chợt ngẩn người ra và mê mẫn trước sắc đẹp như tiên giáng thế của vị phu nhân mà ngày thường chỉ nghe tiếng nói thanh tao như ngọc của nàng qua bức rèm châu. Hỏi thăm thị nữ theo hầu thì được biết đó là Phàn Phu Nhân. Chàng bèn làm một bài thơ tỏ tình ái mộ của mình, rồi nhờ thị nữ chuyển đến cho phu nhân bài thơ sau đây :
同舟胡越猶懷想, Đồng chu Hồ Việt do hoài tưởng.
況遇天仙隔錦屏。 Huống ngộ thiên tiên cách cẩm bình.
倘若玉京朝會去, Thảng nhược Ngọc kinh triều hội khứ,
願隨鸞鶴入青雲。 Nguyện tùy loan hạc nhập thanh vân.
Có nghĩa :
Cùng thuyền Hồ Việt cũng thương nhau,
Huống gặp người tiên cách sáo rào.
Nếu đó Ngọc Kinh về phó hội,
Nguyện cùng chắp cánh vút trời cao !
Phàn phu nhân xem xong mỉm cười nói thầm : Rõ khéo đa tình, rất tiếc ta không phải là đối tượng của chàng ! Bèn lấy ra một mảnh hoa tiên, cất bút đề thơ hồi âm :
一飲瓊漿百感生, Nhất ẩm QUỲNH TƯƠNG bách cảm sanh,
玄霜搗盡見雲英。 Huyền sương đão tận kiến Vân Anh.
藍橋便是神仙窟, Lam Kiều tiện thị thần tiên quật.
何必崎嶇上玉京? Hà tất khi khu thướng Ngọc Kinh ?
Có nghĩa :
Một chén QUỲNH TƯƠNG trăm cảm sanh,
Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
Lam Kiều chốn ấy thần tiên ngụ,
Sao phải gập ghềnh đến Ngọc Kinh ?!
Bùi Hàng đọc thơ mà không hiểu ngụ ý của Phu nhân muốn nói chi. Huyền sương là cái gì và Vân Anh là ai, sao lại ở trong thần tiên quật (hang động của thần tiên). Chàng cứ ngẩn ngơ suy nghĩ mãi không hiểu nàng muốn ám chỉ việc gì. Chừng định hồn lại thì phu nhân và thị nữ đã lên bờ đi mất. Dò la mãi cũng không biết được mãi mai tin tức gì. Buồn lòng, chàng bèn quay trở lại Trường an định chờ khoa thi tới. Khi về đến Lam Kiều Dịch, xa xa trông thấy có mấy mái nhà tranh thật nên thơ, sẵn đang khát nước chàng bèn ghé lại xin chén nước uống. Sau khi hỏi xin bà lão đang ngồi quay tơ trứơc cửa, thì bà lão gọi vói vào trong nhà : “Vân Anh, bưng nước ra mời khách !”. Bùi Hàng ngẩn người ra nhớ lại bài thơ của Phàn phu nhân có nhắc đến Vân Anh. Chàng hồi hộp nhìn vào bên trong bình phong, quả nhiên một người con gái khoảng mười lăm mười sáu tuổi đẹp như tiên nga bưng nước ra mời khách. Chàng uống cạn ly nước mát ngọt lịm tận tim gan. Tuy nàng đã lui vào bên trong mà hương thừa vẫn còn phảng phất đâu đây. Chàng lấy cớ là đi đường người mệt ngựa mõi mà nấn ná xin ở lại nghỉ ngơi.
Sau khi làm quen và trao đổi hàn huyên với bà lão, Bùi Hàng mới khẩn khoản ngỏ ý muốn hỏi cưới Vân Anh, thì bà lão bảo rằng :” Đó là cháu gái của lão, bà cháu sống nương tựa lẫn nhau, nếu muốn cưới nó thì phải giúp lão giả xong thang thuốc Huyền Sương, vì là thuốc của tiên ban nên phải giả bằng chày ngọc cối ngọc. Nếu trong một trăm ngày mà chàng tìm được chày ngọc cối ngọc đến đây giả thuốc cho ta, thì ta sẽ gả nó cho chàng “. Bùi Hàng vui mừng hớn hở từ biệt bà lão để ra đi tìm chày ngọc cối ngọc.
Chàng lang thang suốt hơn hai tháng trường, bỏ cả khoa thi để quyết chí tìm chày cối ngọc. Nhưng vẫn biền biệt không tìm đâu ra cả. Buồn lòng và lo lắng, gặp ai cũng chỉ hỏi có chày ngọc cối ngọc mà thôi. Một hôm đang lang thang để hỏi thăm tin tức ở kinh thành, tình cờ gặp được người buôn ngọc cho chàng biết là có người đang rao bán chày cối ngọc, nhưng lại đòi đến hai ngàn lượng bạc. Chàng đành phải bán cả hành trang, cả ngựa và cả tên gia đồng theo hầu mới đổi được chày ngọc cối ngọc mang về Lam Kiều cho bà lão. Bà lại bảo chàng phải ở lại Lam Kiều để giã thuốc Huyền Sương cho đúng một trăm ngày nữa.
Bùi Hàng dâng thuốc
Khi thuốc đã giã xong và khi bà lão đã uống xong thuốc, bèn dẫn Vân Anh ra đi và bảo chàng hãy nán đợi. Hôm sau, có đoàn ngựa xe từ đâu đến đón chàng đi đến một nơi mây mù vần vũ, lầu các nguy nga, tòa rộng dãy dài, tiêu thiều nhạc sáo vang vang, trúc tơ dìu dặc như tiên cảnh. Bà lão không còn nghèo nàn như trước mà hiện ra như một lão Phật gia trong cung tiên, cô dâu Vân Anh đẹp rực rỡ với “Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng” được thị tì hai bên đở ra để làm lễ tơ hồng. Bùi Hàng bàng hoàng ngây ngất, sung sướng đê mê bên cô dâu thơm phức và đẹp như … tiên !
Sau khi cử hành hôn lễ, bà lão còn đưa hai vợ chồng đến ra mắt một tiên nương chị của cô dâu Vân Anh là Vân Kiều. Bùi Hàng mới giật mình nhận ra đây là Phàn phu nhân đi cùng thuyền với mình lúc trước. Thì ra Vân Kiều Phàn phu nhân đã báo trước mối duyên giã thuốc của mình với Vân Anh ở Lam Kiều rồi, mà trước đây mình đâu có biết. Sau những năm tháng sống vui vẻ bên nhau, vợ chồng Bùi Hàng cũng cùng tu và cùng đắc đạo thành tiên cả.
Đây cũng là câu chuyện xung đột giữa đạo Nho và đạo Lão. Vì chuyện của Bùi Hàng mà một số Nho sinh bỏ Nho theo Lão để tu tiên. vừa có vợ đẹp vừa có cuộc sống thoải mái như … tiên. Không bị ràng buộc bởi công danh phiền toái mà còn phải biết a dua nịnh bợ với cấp trên và cũng chưa chắc đã được yên thân trong quan trường đầy hiễm họa.
TƯƠNG 將 còn có nghĩa là Sẽ, là Sắp. Như TƯƠNG LAI 將來 là Sắp đến, Sẽ đến, thường dùng để chỉ thời gian và hoàn cảnh sắp diễn ra, có thể tốt có thể xấu, như :
– TƯƠNG LAI xán lạn, rực rỡ…
– TƯƠNG LAI đen tối, mờ mịt…
Tùy theo ngữ cảnh, khi nói lên những “mơ ước về sau” thì TƯƠNG LAI tự nó đã có nghĩa là tốt rồi, vì đâu có ai mơ ước những chuyện xấu bao giờ, như lời cha mẹ khuyên con cái, thầy giáo khuyên học trò :
– Rán học giỏi thì mới có TƯƠNG LAI.
– Biếng nhác quá thì làm sao có TƯƠNG LAI cho được !
TƯƠNG 將 là sắp, là Sẽ; Nên TƯƠNG YẾU 將要 (Sẽ phải), TƯƠNG DỤC 將欲 (Sắp muốn) là những từ dùng để nhấn mạnh thêm những sự việc sắp xảy ra mà thôi, như bài thơ “Tặng Uông Luân 贈汪倫” của Lý Bạch sau đây :
李白乘舟將欲行, Lý Bạch thừa chu TƯƠNG DỤC hành,
忽聞岸上踏歌聲。 Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh.
桃花潭水深千尺, Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích,
不及汪倫送我情。 Bất cập Uông Luân tống ngã tình !
Có nghĩa :
Lên thuyền Lý Bạch toan rời,
Bỗng nghe trên bến tiếng người nhịp ca.
Sâu ngàn thước, đầm Đào hoa,
Uông Luân tình bạn tiễn ta hơn nhiều !
Nhắc đến Thi Tiên Lý Bạch thì không thể không nhắc đến bài TƯƠNG TIẾN TỬU 將進酒 nổi tiếng của ông. TƯƠNG 將 ở đây có nghĩa là Mời; TƯƠNG TIẾN TỬU có nghĩa là “Mời Uống Rượu; Mời Cạn Ly”. Bài thơ bất hủ với những câu như :
… 會須一飲三百杯, Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
và…
… 與爾同銷萬古愁! Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu !
Có nghĩa :
Ba trăm ly uống hả hê…
Mối sầu vạn cổ trả về thiên thu !…
TƯƠNG 將 còn có nghĩa là Đem, là Lấy ; như trong các thành ngữ TƯƠNG CÔNG THỤC TỘI 將功贖罪 là “Lấy Công Chuộc Tội”, TƯƠNG KẾ TỰU KẾ 將計就計 là “Đem kế (của người ta) làm kế (của mình) để đối phó lại với đối phương… Theo như tích trong “Tam Quốc Chí” sau đây :
Sau khi Tào Tháo lấy ít thắng nhiều ở trận chiến Quan Độ, bèn xua Tám mươi ba vạn quân với khí thế hừng hực tiến chiếm Kinh Châu và Đông Ngô. Hai bên dàn quân ở hai bên bờ Hạ Khẩu của sông Trường Giang. TƯỞNG CÁN 蔣幹 tự là Tử Dực, một mưu sĩ dưới trướng của Tào Tháo, xin với Tháo cho mình qua sông làm thuyết khách để chiêu hàng Chu Du vì mình là bạn đồng song với Chu Du thuở trước. Chu Du là Đô đốc của Đông Ngô đang lo lắng vì sau khi Tào Tháo chiếm Kinh Châu thì 2 tướng Thủy quân Đề Đốc là Thái Mạo và Trương Doãn đã đầu hàng Tào Tháo và hiện đang giúp Tào Tháo chấn chỉnh thao luyện thủy binh. Chu Du nghe tin Tưởng Cán đến bèn cùng các tướng bàn bạc, TƯƠNG KẾ TỰU KẾ niềm nở tiếp đón bạn học cũ Tưởng Cán và bày ra tiệc “Quần Anh Hội” để mừng bạn và quy định trong tiệc chỉ hàn huyên tình cố cựu mà không được nói đến việc quân cơ. Sau tiệc rượu lại giả say mà mời bạn cùng ngủ chung giường với mình. Tưởng Cán rất buồn vì không nói được lời chiêu hàng nào cả. Nằm trằn trọc không ngủ được, thấy trên án thư có rất nhiều thư từ qua lại, trong đó có thư của hai tướng Thái Mạo và Trương Doãn, nói rằng mình chỉ bất đắc dĩ mới đầu hàng Tào Tháo mà thôi, sẽ lừa dịp mà giết chết và dâng đầu Tào Tháo trong nay mai. Tưởng Cán cả mừng bèn dấu thư đó vào tay áo, rồi giả đò nằm ngủ, lúc trời gần sáng, lại nghe có người đến gọi Chu Du dậy và thì thầm chuyện gì đó như có tin bên quân trại của Tào Tháo đưa qua mà có chắc đến 2 tên Thái Mạo và Trương Doãn. Khi trời sáng, thấy Chu Du vẫn còn say ngủ, bèn lẻn ra lấy thuyền sang sông về dinh Tào Tháo, trình thư đầu hàng Đông Ngô của 2 tướng Thái Mạo và Trương Doãn lên và kể lại mọi điều nghe thấy. Tào Tháo xem thư và nghe kể xong, bèn cả giận, truyền lệnh cho quân sĩ bắt hai tướng lại và chém đầu trước ngọ môn. Khi đao phủ thủ dâng đầu của hai tướng Thái Mạo và Trương Doãn lên, thì Tào Tháo mới chợt tỉnh ngộ biết rằng mình đã trúng kế phản gián của đối phương, nhưng vì tự ái đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà khen thưởng cho Tưởng Cán. Riêng cái anh chàng hủ nho Tưởng Cán vẫn dương dương tự đắc tưởng rằng mình đã lập công to, nào có biết đâu rằng mình đã trúng cái “TƯƠNG KẾ TỰU KẾ” của ông bạn Đô Đốc Chu Du ranh mảnh.