VỢ THẦY TRANG TỬ theo tích sau đây…

Ngày đăng: 31/05/2025 12:49:20 Chiều/ ý kiến phản hồi (0)
       TRANG TỬ tên Chu 周 (Châu), tự là Tử Hưu 子休, người nước Tống 宋 thời Chiến Quốc (690-286 TCN), cùng vợ là Điền Thị ẩn cư ở phía nam núi Hoa Sơn. Một hôm, trên đường về nhà, trông thấy một thiếu phụ dùng quạt để quạt một nấm mộ bên đường. Trang Tử thấy lạ bèn hỏi, thiếu phụ cho biết là mộ của chồng mình, vì khi còn sống hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nên có hẹn nhau là khi chồng chết, thì sau tang lễ, phải đợi cho mộ khô rồi mới tái giá, nhưng gần đây mưa gió cứ dập dìu, mộ không khô được, nên phải quạt cho mộ mau khô! Trang Tử nghe nói, thầm cười cho thế thái nhân tình nhưng cũng thi triển pháp lực giúp thiếu phụ quạt khô mộ chồng. Khi về nhà, đem truyện kể lại với vợ là Điền Thị, Điền Thị vô cùng phẫn nộ, chê trách thiếu phụ và bảo rằng: “Trung thần bất sự nhị quân, Liệt nữ bất sự nhị phu 忠臣不事二君,烈女不事二夫” có nghĩa “Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết liệt chẳng lấy hai chồng”. Mấy tháng sau, Trang Tử bệnh chết, có một thiếu niên anh tuấn dắt theo một lão bộc, tự xưng là Vương Tôn của nước Sở, vì mộ tiếng của Trang Tử mà tìm đến để theo học đạo. Nay tuy Trang Tử đã mất, nhưng cũng nguyện thủ tang theo lễ thầy trò, ở lại cư tang một trăm ngày và để đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Điền Thị rất vui dạ vì cảm cái vẻ cao sang tuấn tú của Vương Tôn, mới nhờ lão bộc làm người mai mối, rồi xuất tiền lo cho hôn sự của hai người. Đêm động phòng hoa chúc, Vương Tôn bỗng phát bệnh đau tim, thoi thóp sắp đứt hơi. Lão bộc cho biết là nếu có óc của người sống hoặc của người chết chưa quá bốn mươi chín ngày hòa với rượu uống vào thì khỏi bệnh. Điền Thị bèn xách búa bổ quan tài của Trang Tử định lấy óc ra làm thuốc cứu mạng Vương Tôn. Không ngờ khi quan tài vừa vỡ ra thì Trang Tử cũng vừa sống lại. Điền Thị cả thẹn, biết mọi việc đều do Trang Tử biến hóa an bày, nên treo cổ mà chết. Trang Tử gỏ bồn làm nhịp ca bài điếu tang rồi cảm khái ngâm rằng :
           從茲了卻冤家債, Tòng tư liễu khước oan gia trái,
           你愛之時我不愛。 Nhĩ ái chi thời ngã bất ái.
           若重與你做夫妻, Nhược trùng dữ nhĩ tố phu thê,
           怕你斧劈天靈蓋。 Phạ nhĩ phủ phách Thiên Linh Cái.
Có nghĩa :
              Từ nay đã hết nợ oan gia,
              Nàng bảo yêu, ta hết thiết tha.
              Tiếp tục vợ chồng như thuở trước,
              Có ngày búa bổ vỡ đầu ta.
       Ngâm xong, nổi lửa đốt sạch nhà cửa quan tài ở dưới núi Hoa Sơn rồi đi mất. Dân chúng quanh vùng chỉ nhặt lại được hai quyển Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh chưa bị thiêu rụi mà thôi. 
       Câu truyện về “VỢ THẦY TRANG SINH” trên đây nhằm phê phán cho thói đời bạc bẽo, chỉ giỏi nói ngoài miệng cho tốt chớ trong lòng thì lại khác. Trong truyện thơ Nôm “Quan Âm Thị Kính” của ta có câu :
                         Còn người còn cái thẹn này,
                  Phải liều như thể VỢ THẦY TRANG SINH !
                  Inline image
      VỖ BỤNG chữ Nho là CỔ PHÚC 鼓腹 là từ nói gọn lại của thành ngữ CỔ PHÚC HÀM BÔ 鼓腹含哺 hay HÀM BÔ CỔ PHÚC 含哺鼓腹. Có nghĩa : Miệng thì ngậm thức ăn còn tay thì vỗ bụng; chỉ đời sống no đủ thoải mái. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ một câu trong sách “Trang Tử” đời Tiên Tần :
      “Phù Hách Tư Thị chi thời, dân cư bất tri sở vi, hành bất tri sở chi, hàm bô nhi hi, cổ phúc nhi du, dân năng dĩ thử hỉ 夫赫胥氏之时,民居不知所为,行不知所之,含哺而熙,鼓腹而游,民能以此矣”. Có nghĩa : Vào thời của Hách Tư Thị (chỉ Viêm Đế) cư dân không biết phải làm gì cả; đi cũng không biết muốn đi tới đâu; Miệng thì ngậm cơm vui thích, tay thì vỗ bụng rong chơi. Dân có thể được như thế là tốt quá rồi. Văn học cổ mượn ý nầy để chỉ cảnh thái bình thịnh trị. Như trong tác phẩm  “Sãi Vãi” của cụ Nguyễn Cư Trinh thuộc văn học Đàng trong có câu :
                          Già phò gậy ra xem thạnh trị; 
                          Trẻ NGẬM CƠM mừng gặp thái bình.
      Còn trong bài “Tịnh Cư Ninh Thể Phú” của Nguyễn Hãng 阮沆 một danh sĩ đời Hậu Lê thì có câu :
           Tuy ngày tháng đà ngày tháng Thuấn, đâu cũng vầng chiếu đất thênh thênh;
           Song nước non còn nước non Nghiêu, ta thường VỖ BỤNG rau phạch phạch.
     Còn trong “Hàn Nho Phong Vị Phú” của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ thì viết là :
          Ngày ba bữa, VỖ BỤNG rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no;
          Đêm năm canh, an giấc ngáy o o, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ…
                   Inline image
                                      HÀM BÔ CỔ PHÚC 含哺鼓腹
      VU QUY 于歸 là Đi về nhà chồng, là Xuất Giá 出嫁, là đi lấy chồng. Có xuất xứ từ chương《Chu Nam. Đào yêu 周南·桃夭》của Kinh Thi《詩經》như sau :
                   桃之夭夭,    Đào chi yêu yêu,
                   灼灼其華。    Chước chước kỳ hoa.
                   之子于歸,    Chi tử VU QUY,
                   宜其室家。    Nghi kỳ thất gia.
       Có nghĩa :
                   Cành đào non mơm mởn,
                   Rực rỡ những bông hoa.
                   Cô gái về nhà chồng,
                   Cho yên bề thất gia.
       Lục bát :
                   Hoa đào mơn mởn cành non,
                   Bông hoa rực rỡ hãy còn thong dong.
                   Cô con gái về nhà chồng,
                   Yên bề gia thất yên lòng mẹ cha !
      Trong Truyện Kiều, khi Mã Giám Sinh đã “…ngã giá vàng ngoài bốn trăm
 để mua Thúy Kiều xong xuôi, thì cũng…
                         Định ngày nạp thái VU QUY,
                     Tiền nong đã có việc gì chẳng xong.
      Khi biết mình đã lọt vào lầu xanh, Thúy Kiều đã quyên sinh và Tú Bà đã nài nỉ khuyên lơn :
                            Lỡ chân trót đã vào đây,
                   Khóa buồng xuân để đợi ngày ĐÀO NON !
      Ngày ĐÀO NON là ngày xuất giá đi lấy chồng đàng hoàng đó. Đây chỉ là cách nói trấn an Thúy Kiều của Tú Bà mà thôi !
                  Inline image
      VU SƠN do tích Vu Sơn Thần Nữ 巫山神女 như sau :
      Theo thần thoại Trung Hoa, con gái của Xích Đế 赤帝 là Dao Cơ 瑶姬, chết trẻ, chôn ở Vu Sơn, hồn phách không tan, biến thành Thần Nữ. Trong bài Cao Đường Phú của Tống Ngọc nước Sở thời Chiến quốc có ghi lại: Sở Vương đi chơi ở Cao Đường, mơ thấy Thần Nữ đến cùng ân ái, khi chia tay còn nói là “Đản vi triêu vân, mộ vi hành vũ 旦为朝雲,暮为行雨” (Thiếp kéo mây ở buổi sáng, làm mưa ở buổi chiều). Theo quan niệm cổ xưa thì nữ thần và vua giao hợp có thể làm cho phong điều vũ thuận, ngũ cốc phong đăng. Có nghĩa: Mưa thuận gió hòa, lúa thóc được mùa. Nhưng dân gian lại không chịu hiểu theo nghĩa đó, hễ nhắc đến Sở Vương và Thần Nữ thì sẽ nghĩ ngay đến “MÂY MƯA ân ái giữa trai gái với nhau” mà thôi ! Vì thế, sau nầy hễ nhắc đến Thần Nữ Vu Sơn, Cao Đường Thần Nữ là người ta nghĩ ngay đến một giai nhân tuyệt sắc gợi tình, và nói đến VU SƠN, Kéo Mây Làm Mưa, hay nói gọn thành Mây Mưa, là người ta lại nghĩ ngay đến việc ái ân trai gái. 
       Trong “Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập” của vua Lê Thánh Tông (1442-1497) cùng với các thành viên của nhóm “Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú”. Trong bài “Lưu Nguyễn Nhớ Tiên Nữ” của vua Lê Thánh Tông có câu :
                       Tưởng người ngọc nữ thêm ngừng mặt,
                            Nhớ nỗi VU SƠN dễ chạnh lòng !
                         Inline image

      VŨ HẦU 武侯 là Vũ Hương Hầu 武鄉侯 chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng 孔明諸葛亮 được vua Thục Hán Lưu Bị phong là Thừa Tướng với tước hiệu là Vũ Hương Hầu và Thụy hiệu khi mất là Trung Vũ Hầu 忠武侯. Trong “Thiên Nam Ngữ Lục” ở cuối Thế kỷ 17 của Nguyễn Lương Ngọc và Đinh Gia Khánh có câu :
                       Thái Công trí độ tác nhiều,
                      Di Ngô dám ví, VŨ HẦU khá so.
      VŨ LỘ 雨露 là hạt Mưa và hạt Móc rơi xuống làm cho cỏ cây hoa lá tươi tốt, nên được mượn ví với ân điển của nhà vua ban cho bề tôi. Hai câu cuối trong bài thơ “Tống Lý Thiếu Phủ biếm Hiệp trung, Vương Thiếu Phủ biếm Trường Sa 送李少府貶峽中王少府貶長沙” của nhà thơ Cao Thích 高適 đời Đường là :
                   聖代即今多雨露,  Thánh đại tức kim đa VŨ LỘ,
                   暫時分手莫躊躇。  Tạm thời phân thủ mạc trù trừ !
       Có nghĩa :
                        Vua nay MƯA MÓC ơn nhiều,
                    Chia tay tạm biệt chớ điều phân vân !
       Trong bài “Tụng Tây Hồ Phú” của Nguyễn Huy Lượng 阮輝諒 (1759-1808) một danh sĩ làm quan dưới đời Tây Sơn có câu :
                  Trên dưới đều rồng mây cá nước phải duyên, 
                                                      giọt VŨ LỘ tưới đôi hàng uyên lộ;
                  Gần xa cũng cõi bờ non sông một mối, 
                                                       tấm đan thanh dung khắp lũ nghêu sò.
      VŨ KHÁCH 羽客 là người khách mặc áo lông chim, thường dùng để chỉ đạo sĩ hay những người tu tiên; VŨ Y 羽衣 là Áo bằng lông chim, theo tích “Đường Minh Hoàng du nguyệt điện”. Sau giấc mộng nhà vua thành lập một đội múa hát cho các cung nhân mặc y phục được kết bằng lông chim như là các tiên nữ trên cung trăng vậy, gọi là “Nghê Thường Vũ Y Khúc 霓裳羽衣曲”…
       Trong truyện thơ Nôm khuyết danh “Truyện Từ Thức” có câu :
                            Niềm trần gió thổi bụi tan,
                     Tuy không VŨ KHÁCH cũng là văn nhân.
       Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều được mở đầu bằng hai câu :
                        Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
                        Mảnh VŨ Y lạnh ngắt như đồng !
                 Inline image
       VŨ MÔN 禹門 là CỬA VŨ, còn được gọi là LONG MÔN 龍門, nằm ở thượng lưu sông Hoàng Hà, giữa huyện Hà Tân tỉnh Sơn Tây và huyện Hàn Thành tỉnh Thiểm Tây Trung Hoa. Ở đây có mỏm đá như hình cái cửa.
       Theo truyền thuyết, thời thượng cổ vua Vũ nhà Hạ khi trị thủy đã đục phá mỏm đá nầy cho rộng thêm ra để nước dễ chảy xuống hạ lưu, nên mới gọi là VŨ MÔN (Cửa của vua Vũ tạo nên). 
       Theo sách Tam Tần Ký và Thủy Kinh Chú, thì Vũ Môn thường có sóng dữ, hằng năm vào tiết tháng ba, cá chép tập trung ở nơi đây để thi vượt qua Vũ Môn. Con nào vượt qua được thì sẽ hóa rồng, nên còn gọi là LONG MÔN. Do đó, CỬA VŨ còn được dùng để chỉ chốn trường thi. Ai thi đỗ thì gọi là đã Vượt Qua Được Cửa Vũ !
      Nhưng, theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì ở nước ta cũng có Vũ Môn ở dãy núi Khai Trưởng (tục gọi là núi Giăng Màn) thuộc huyện Hương Khê tỉnh Hà Tỉnh. Đây là một dòng suối có 3 bậc. Truyền thuyết kể rằng, hàng năm đến tháng tư có mưa to, nước nguồn tràn ngập thì có cá chép ngược dòng nhảy qua Vũ Môn để hóa rồng, như trong thơ của cụ Đào Duy Từ :
 
                         Kim ngư đeo ấn ở mình,
                   Cá trông CỬA VŨ, rồng giành hột châu.
      CỬA VŨ còn được nói thành CỬA VÕ như trong Truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu :
                         Công danh ai chẳng ước mơ,
                      Ba tầng CỬA VÕ một giờ nhảy qua !
      Trong truyện thơ Nôm khuyết danh “Phương Hoa-Lưu Nữ Tướng” thì có câu :
                         VŨ MÔN mong vượt sóng đào,
                     Hay tìm Trình Tử hay vào Thiên Thai.
                   Inline image

                          Đỗ Chiêu Đức

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác