Loan Sicre de Fontbrune – Người bảo hộ cho mỹ thuật Đông Dương.
Tại Pháp, có một người Pháp gốc Việt rất nổi tiếng mà giới khảo cứu, sử gia nghệ thuật Châu Á trong nước và quốc tế đều biết, đó là người phụ nữ tài sắc Loan Sicre de Fontbrune . Một nhà sưu tập kỳ cựu – người bảo hộ cho mỹ thuật Đông Dương.
Chị sinh ra trong một gia đình gốc Huế nhưng tuổi thơ lại gắn liền với khu Chợ Lớn. Ông cố ngoại của chị là quan dưới đời vua Thành Thái. Ba mất sớm, chị ở với mẹ và có người cha kế là một bác sĩ phẩu thuật ở Chợ Lớn.
Từ nhỏ, chị đã được học tiếng Pháp tại trường Fraternité (trường Bác Ái) Chợ Lớn và trường Marie-Curie. Từ năm 1975 đến 1977 học và thi bằng correspondance với Centre National de Télé-Enseignement, CNTE, section Littérature (Văn chương).
Chị đậu tú tài Pháp năm 1977, sau đó dạy tiếng Pháp hai năm ở trường mình đã tốt nghiệp. Thời gian rảnh, chị học đàn piano, học vẽ, học võ Aikido đến đai đen. Yêu nghệ thuật từ nhỏ, chị đọc, ghi lại và nhớ tên các danh họa Trung Hoa thời xưa.
Năm 1979, vì ông nội có quốc tịch Pháp nên cả nhà sang Pháp sinh sống. Ra đi khi mới hai mươi tuổi, trong hành trang mang theo, chị quý nhất là ba bức tranh lụa của họa sĩ Tú Duyên và bốn bức tranh nhỏ xíu chạm ngà của họa sĩ Đới Ngoạn Quân. Đến Pháp, chị qua bảy năm Đại học ở Viện Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông (Institut National des Langues et Civilisations Orientales), gọi tắt là Langues’ O, nổi tiếng dạy về các sinh ngữ và văn hoá của Á châu. Môi trường này thích hợp vì chị thích và có khiếu về ngoại ngữ, ở trường cũ đã học tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha và Đức. Chị tốt nghiệp và lấy bằng cấp về tiếng Việt, tiếng Hoa và tiếng Nhật.
Trong thời gian học ở đây, năm 22 tuổi, một người bạn gái rủ chị ghi tên cuộc thi Hoa hậu Á châu do người Hoa ở Paris tổ chức lần đầu ở quận V, salle Maubert-Mutualité, giải nhất là một vé khứ hồi đi Hong Kong. Chị ghi tên, được vào vòng chung kết trong số vài trăm người đẹp Á châu hải ngoại dự thi và cuối cùng đã được chọn làm Hoa hậu. Chị toại nguyện giấc mơ đi du lịch ở Trung Hoa khi học tiếng Hoa khi xưa. Trong thời gian học, chị còn được học bổng đi Đài Loan (cả nước Pháp chỉ chọn hai người giỏi nhất của hai trường nổi tiếng nhất ở Paris).
Học ngôn ngữ xong, chị tiếp tục giấc mơ đến với nghệ thuật của mình: học về mỹ thuật Châu Á tại Ecole du Louvre, Institut d’Art et d’Archéologie, Đại học Sorbonne,… Chị lấy bằng cấp về Anh ngữ (Oxford) và bằng cấp cuả Institut d’Etudes Supérieures des Arts (IESA).Vừa học, chị đọc sách bằng tiếng Hoa, Nhật…, tự tìm tòi, sưu tầm và nghiên cứu thêm về mỹ thuật Việt Nam vì lúc đó ở Pháp rất ít và gần như không có người chuyên môn về văn hóa Việt. Chị tìm hiểu và học cách phân biệt đồ Việt Nam với đồ xưa của các xứ châu Á khác (Tàu, Nhật, Hàn, Thái, Khmer…) và dần đi sâu vào ngành này.
Chị được ông Albert Le Bonheur, Conservateur en chef của bảo tàng Guimet (Musée National des Arts Asiatiques), chuyên về lĩnh vực Khmer và Champa, và cũng là thầy của chị, nhận làm việc dưới quyền của ông, với chức danh là nhân viên “đặc cách” (Chargée de mission) của bảo tàng, khu vực Đông Nam Á (département Asie du Sud-Est). Chị được phép mở các tủ kính trưng bày để lau chùi, chạm vào các hiện vât quý giá, xem xét và nghiên cứu các hiện vật trong kho. Nhờ công việc này, chị phát hiện nhiều tượng gỗ sơn son thếp vàng, bàn thờ, chuông và khánh đồng của Việt Nam rất đẹp nhưng không ai ở bảo tàng rõ xuất xứ. Từ đó, một số bức tượng được đem ra khỏi kho để trùng tu, trưng bày (và được trưng bày trong triển lãm được khai mạc tháng 7/2014: “Rồng bay – Nghệ thuật Cung đình Việt Nam”). Sau đó, các bảo tàng khác của nước Pháp (Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Paris-Museum d’Histoire Naturelle de Paris, Bảo tàng quốc gia về gốm sứ Sèvres-Musée National de la Céramique de Sèvres, Bảo tàng Limoges-Musée de Limoges,…) cũng mời chị vào kho để giám định các hiện vật và chị đã tìm được nhiều món gốm Việt ở các bảo tàng này, ví dụ bộ đồ trà Bát Tràng mà phái đoàn đi sứ của cụ Phan Thanh Giản đã tặng cho bảo tàng Sèvres mà chị đã từng nghe kể về chuyện này trước đó. Trong kho cuả bảo tàng Guimet, có nhiều món Bleus de Hué do cụ Vương Hồng Sển tặng lúc qua Pháp…
Trong thời gian năm năm làm việc ở bảo tàng, chị viết nhiều bài về đồ sứ ký kiểu cung đình Huế (bài nghiên cứu đầu tiên về đề tài này ở Pháp), các lăng tẩm triều Nguyễn; thuyết trình về văn hoá Việt,… Chị giúp Bảo tàng Hoàng gia Bỉ tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên ở nước ngoài về mỹ thuật Việt Nam. Dự án này phải mất mười năm mới thành hiện thực và để đưa cả trăm hiện vật quý đi triển lãm, Quốc hội Việt Nam phải ra Luật Di sản văn hóa và nhờ đó, sau này mới có những cuộc triển lãm kế tiếp trên thế giới và việc sưu tầm đồ cổ Việt Nam được chính thức thừa nhận. Và nhờ làm việc ở bảo tàng Guimet, chị có dịp đến nhà các tư nhân để xem các hiện vật của Việt Nam mà họ muốn tặng cho bảo tàng, phần lớn do ông bà, cha mẹ khi xưa sống ở Việt Nam để lại.
Khi bảo tàng Guimet đóng cửa để sửa chữa, chị trở về sống ở Việt Nam trong bảy năm mới trở về Paris. Chị cũng tham gia khai quật các lò gốm xưa ở Bình Định (Gò Hời) với Bảo tàng hoàng gia Bỉ (tài trợ) và Viện khảo cổ Hà Nội, bảo tàng Bình Định. Chị cũng sưu tầm thêm tranh của các hoạ sĩ miền Nam (trường Mỹ Thuật Sài Gòn, trường vẽ Gia Định, trường Mỹ nghệ Biên Hoà,…).
Phạm Công Luận
Bức sơn mài La recontre của Nguyễn Tiến Chung trong bộ sưu tạp của bà Bùi Mộng Điệp
– thứ phi của vua Bảo Đại.