Cao Thị  Hoàng nhà văn viết Địa phương chí (Kỳ 2)

Ngày đăng: 25/02/2020 07:52:05 Chiều/ ý kiến phản hồi (0)

Vẫn phong cách của một người viết “địa phương chí” ngoại hạng, bài “Con cá bống kèo miền quê ngoại” của Cao Thị Hoàng, với tôi, có dễ là bài viết mang nhiều tính ẩn dụ nhất, trong số những bài viết đặc biệt của tác giả này. Mở vào phân đoạn 3 chuyện “Con cá bống kèo miền quê ngoại” vẫn là một đoạn văn chan chứa thi tính, pha lẫn chút văn chương dân dã:

“Long Hựu vào mùa gió chướng.

Những cây so đũa nở bông trắng xóa trong vườn, những dây đậu rồng đậu trái xanh mượt đang cố leo qua tường đất bỏ hoang. Mùa gió chướng nhắc nhở mùa hội cá bống kèo. Có bông so đũa, có trái đậu rồng xắt liễn, có từng khoanh ớt sừng trâu mỏng xéo… hòa tan cùng me hoặc lá giang hay cơm mẽ… là chắc mẩm ba bó một giạ rằng mình, có nồi canh chua cá bống kèo quê nhà vừa nóng hổi, vừa thổi vừa húp hít hà…giữa những ngày cuối thu đầu đông, mát trời ông địa!”

Để rồi mỗi đoạn văn kế tiếp là một ẩn dụ được xây dựng trên tinh thần dân tộc, bản chất tự cường của người Việt… qua những sự kiện thực tế của giai đoạn nhiễu nhương nhất của lịch sử hiện đại, Cao Thị Hoàng viết:

“… Mẹ con cá bống kèo tận lực đào hang thật sâu để tránh đạn pháo từ chi khu Cần Đước bắn xuống, từ Hạm Đội ngoài biển bắn vào. Mấy đứa con thắc mắc, hỏi mẹ:

– Cái xứ Long Hựu có gì mà mình phải bám miết vậy mẹ? Sao không bỏ đi quách cho rồi?

“Mẹ vừa lấy đuôi xoi lỗ, vừa lấy miệng cạp đất đổ ra ngoài.

“- Ở đâu quen đó. Đến nơi lạ chẳng dễ gì. Vả lại, chiến tranh thì chỗ nào cũng chiến tranh. Tránh vỏ dưa, trợt vỏ dừa, chớ được gì đâu!

“Sống chết có số và trời kêu ai nấy dạ, biết sao?

“Mẹ nói vậy là cố giấu bầy con biết vết thương lòng của dòng họ kèo, vết thương dai dẳng và luôn chực chờ rướm máu nếu ai đó vô tình chạm phải.

“Lúc mẹ tròn năm tháng tuổi – cái tuổi bước vào ngưỡng xuân thì phơi phới – tình cờ mẹ nghe lén câu chuyện giữa ông ngoại với bà ngoại về nỗi đau của dòng họ cá bống kèo.

“Rừng ngập mặn do thiên nhiên ban tặng chúng sinh trải dài theo bờ biển từ khu Rừng Sát đến mũi Cà Mau: Cây mắm, cây đước, cây sú vẹt, cây bần, cây tràm…đua nhau mọc lên chắn sóng giữ đất. Muôn loài thủy sinh mặn lợ đoàn kết tình thương mến thương sinh sôi nẩy nở. Trời đất sinh ra hai dòng cá bống kèo. Dòng anh vây lớn, dòng em vây nhỏ; cùng sống theo tinh thần chị ngã em nâng, nhưng tính khí anh em hoàn toàn khác nhau. Anh say sức mạnh, lúc nào cũng muốn chứng tỏ đẳng cấp của mình qua cái vây lớn cơ bắp. Ngược lại, em thích tung tăng bơi lội tự do trong miền đất được sống, yêu thương và giúp đỡ mọi loài. Phúc chung dòng, họa khác giống!”

“Rồi một đêm đất tối trời mù, anh bỏ xứ Long Hựu nước mặn đồng chua đi giang hồ phiêu bạt. Em ở lại chốn quê chí thú mần ăn, sống cùng cái cực cái nghèo, bám đất giữ nước.

“Trong chốn giang hồ gió tanh mưa máu, anh thần phục loài Cá Ngựa sống biển khơi; nhận Cá Ngựa làm Sư phụ, tình nguyện làm thân khuyển mã hầu mong Sư phụ đoái thương truyền thụ bí kíp thần thông, để mai kia mốt nọ qui cố hương múa gậy vườn hoang khoe tài trí hơn người, hô phong hoán vũ giựt le và mần cha thiên hạ. Cá Ngựa cũng chẳng phải tay tầm thường. Nó biết tỏng tòng tong lỗ đít cá bống kèo vây lớn lỗ đít mấy khía, biết tâm địa muốn gì; nhưng nó giả đò khù khờ không biết. Cái đó, người đời thường bảo:

Người khôn ăn nói nửa chừng

Để cho thằng dại nửa mừng nửa lo…”

(Ca dao)

Từ những đặc tính riêng của loài cá này (mà đa phần chúng ta không hề biết), Cao Thị Hoàng mượn lời “trưởng thượng” là ông, bà ngoại bầy cá này, để lai tỉnh nhân tâm, bằng những đối thoại dưới đây:

“… Tiếng bà ngoại tằng hắng có vẻ tức tối, hỏi ông ngoại:

“- Bọn Cá Ngựa có phù phép gì ghê gớm, khiến anh cá bống kèo vây lớn nhà ta khiếp sợ phải quỵ lụy nhục nhã như vậy?

“Ông ngoại cười ngất:

“- Qua sông phải lụy lấy đò. Người cao vì ta cúi xuống. Ngựa – kể cả ngựa Xích Thố – còn chưa sợ, mắc mớ chi sợ Cá Ngựa?

“Ông ngoại ngưng một lát, rồi nói tiếp:

“- Có điều, đôi mắt Cá Ngựa nhô cao di động, thừa khả năng nhìn thấy kẻ thù hoặc con mồi mà không cần di chuyển. Với một cái vòi dài để mút con mồi nếu như nó muốn, một cái đuôi dài để giữ thăng bằng và bảo vệ mình khi gặp luồng nước dữ. Có lẽ, anh cá bống kèo vây lớn mê là mê cái chỗ nầy!

“Có tiếng hớp nước của bà ngoại và giọng trầm đầy ái ngại:

“- Nếu quả thực anh cá bống kèo vây lớn mê đôi mắt nhô cao di động, cái vòi và cái đuôi dài… chẳng hiểu anh có biết rằng, được những ngữ đó, Cá Ngựa trải qua một đời sống kỳ quặc chẳng giống ai: Cá Ngựa cái đẻ trứng vào túi ấp của Cá Ngựa đực và Cá Ngựa đực ấp trứng từ hai đến ba tuần thì trứng nở con. Cá Ngựa con chui ra như Cá Ngựa đực đẻ. Đeo đuổi cái không thể sẽ rước họa vào thân, học cái không nên sẽ hại dòng tộc chủng loài.

“Rồi bà ngoại quả quyết:

“- Cá Ngựa hoặc Cá Bống Kèo, cá nào cũng là cá. Biết cá nào hơn cá nào mà tầm sư học đạo? Đã thân phận cá ắt im lặng và cá sẽ đưa đến hệ quả thắng thua. Thắng thua từ cá, thì có nghĩa lý gì trong cái mang mang trời đất chúng sinh? Người nợ chúng sinh, chớ chưa chắc chúng sinh nợ người!”

Khoan nói tới khía cạnh những “thông điệp” mà tác giả muốn gửi tới người đọc như: Hãy “tự lực, tự cường”, đừng cầu lụy ngoại nhân, quay về với tính truyền thống “anh em một nhà” thì, chỉ với những hiểu biết cặn kẽ của Cao Thị Hoàng về cách thức truyền giống của loài cá ngựa, cũng đã đủ thỏa mãn bản chất tò mò của độc giả!

Nhưng “thông điệp” Cao Thị Hoàng muốn gửi tới người đọc của mình, không dừng ở đó. Càng bước về phần cuối chuyện, độc giả không cần phải động não, cũng thấy ngay sự khác biệt giữa ý niệm thiện / ác; luân lý và phi luân; nhân bản và vong thân…

Thác lời “cá bống kèo”:

“… Trong bầy con của mẹ, không phải đứa nào cũng đồng ý với mẹ nhịn nhục ra đi. Có đứa muốn một trận sống mái cho ra ngô ra khoai. Có đứa nói nó ít, ta nhiều và sợ chi cái lũ cá ngựa chống lưng bọn cá bống kèo vây lớn. Có đứa bặm trợn và bức xúc hơn: ‘Sao mình không cậy nhờ lực lượng cá thòi lòi, lươn, chình, chạch… hình thành liên minh chống bọn chúng, giữ lãnh địa sinh sống lâu đời’. Hiểu nỗi lòng của các con, mẹ nói: “Ích kỷ, lợi quyền gây thù hận, sẽ đau khổ và khó khăn khi hòa giải”. Rồi mẹ khuyên nhủ các con như khuyên nhủ chính mình: ‘Đừng để ngày sau thiên hạ ghi câu cõng rắn cắn gà nhà trong lịch sử cá bống kèo vây nhỏ’!

“Mọi chuyện tưởng rằng yên, nhưng lại không yên; rõ là do đức cạn trí nông và thấy một ly nhích đi một dặm của Trưởng lão cá bống kèo vây lớn, lần hồi đẩy giống nòi rơi vào đại họa diệt chủng.

“Thu tóm xong lãnh địa của cá bống kèo vây nhỏ, Trưởng lão trở thành lãnh chúa và tự cho mình có quyền năng vô hạn. Lão dối trá và khoát lác rằng: ‘Sư phụ cá ngựa có sức mạnh tình dục vô địch, còn lão và dòng tộc thì trong cơ thể chứa hàm lượng đạm tinh khôi thiên nhiên vô tận’. Lời nổ rân trời lan rất xa và đến tai con người. Gặp lúc gạo châu củi quế, kinh tế bao cấp khó khăn, con người ùn ùn đổ xô nhau truy tìm và đánh bắt cá ngựa ngâm rượu làm thuốc, bán cho những kẻ suy yếu cái đứng hàng thứ ba trong tứ khoái. Rồi rừng ngập mặn bị tàn phá, các loài thủy sản ven bờ cạn kiệt, các ao nhân tạo nuôi tôm sú mọc lên như nấm, con cá bống kèo bất luận vây lớn hoặc vây nhỏ đều vơi dần,vơi dần theo thói háo ăn sạch sành sanh của con người. Lớp ăn, lớp phá, của trời nào chịu thấu; nói chi đến của chùa!

“Về nương náu ở vàm kinh Nước Mặn riết rồi cũng quen nước quen cái, tàu ghe qua lại chạy rần rật suốt ngày đêm, mẹ con cá bống kèo vây nhỏ sống tạm ổn. Trong lúc đó, miền đất quê ngoại Long Hưụ bắt đầu khai hoang phục hóa, chuyển vụ nuôi trồng; Trưởng lão cùng dòng tộc cá bống kèo vây lớn bị người bắt giết gần hết và không còn đất dung thân. Mẹ cầm lòng chẳng đặng, bắn tin đến Trưởng lão: ‘Mẹ sẵn sàng đùm bọc, bởi nhiễu điều phủ lấy giá gương…’, bài học đầu đời mẹ từng thuộc khi mới lớn. Hôm trùng phùng với Trưởng lão ở doi đất bồi, mẹ lờ đi chuyện cũ không vui, mà chỉ nói:

“- Con vật nếu có ác, thì cùng lắm chỉ ác do bản năng; nhất thời, cấu xé ăn thịt nhau rồi thôi. Con người ác, chẳng những ác do bản năng mà còn ác do trí khôn; không những ác nhất thời mà còn ác lâu dài, hỗ trợ bởi mưu ma chước quỷ. Người đối với người còn lạnh lùng vô cảm, huống chi đối với loài vật chúng ta..”.

Đó là trích đoạn ở phân đoạn 4 của chuyện Con cá bống kèo miền quê ngoại. Ở phân đoạn này, Cao Thị Hoàng cũng ghi lại cảnh những con cá bống kèo thấy một cô gái bị chen lấn rớt xuống dòng kinh. Mọi người đứng nhìn! Cuối cùng một ông già phải nhảy xuống nước, cứu mạng cô gái. Tác giả ghi lại, như một thí dụ điển hình về tính vô cảm của hiện thực xã hội hôm nay – Rồi, nhấn mạnh:

“…Nỗi buồn của người nầy, lại là niềm vui của kẻ khác. Tiếng khóc của sự khổ đau mất mát, lại là trận cười hả hê được của. Con chim ngừng tiếng hót khi đồng loại gặp tai ương. Con người tiền thầy bỏ túi, mặc đồng loại đói cơm thiếu áo. Trưởng lão thấm thía cho cái nhân tình thế thái – mà thật ra, cái nhân tình thế thái nó tùy thuộc vào cái hình thái xã hội cũng nên. Khó nói lắm! Định mệnh chưa hẳn, mầu nhiệm trong tay Thiên Chúa chắc đâu?”

Trước khi ra khỏi chuyện “Con cá bống kèo miền quê ngoại” ở phân đoạn 5, áp chót, Cao Thị Hoàng trở lại với một trong những thao thức, khắc khoải, âu lo của mình là: Mối ưu tư đau đáu về tương quan máu / thịt giữa con người và thiên nhiên, về bản năng hay thú tính của con người, khi nhấn mạnh:

“… Long Hựu bây giờ dẫu có bỏ công đi tìm đỏ con mắt, cũng không dễ gì gặp con cá bống kèo thiên nhiên. Ngần ấy năm thôi, con người tàn phá và xoay chuyển môi trường sinh thái biến đổi chóng mặt và ngợp thở. Cái ăn và thức uống thời hiện đại, đã khéo léo và len lỏi từng bước thống lĩnh cái miệng của mỗi con người trong gia đình, nhất là những người trẻ.

“Cá bống kèo nuôi thường tự sự nhau rằng: Tiên hiền thuở trước bị con người coi rẻ mạt, người giàu sang quyền thế có bao giờ chấm mút món cá bống kèo? Hạng dân cùng đinh, manh lệ, từng bị liệt vào hạng cá kèo. Dân nghèo đi coi hát, đi coi đá bóng…đi…tất tất đều bị liệt vào cái hạng cá kèo! Nghĩ tội cho ông bà ông vải nhà kèo! Nay thì cuộc đổi đời đã khác, tụi mình được người giàu sang quyền thế tôn vinh Minh chủ đệ nhất thực trong cái rừng ẩm thực hổ lốn của con người.

“Nghiệt nỗi, cá bống kèo do con người nuôi thì mần sao sánh được sinh khí đất trời nuôi? Lòng người sao so đo được lòng càn khôn vũ trụ? Cá bống kèo ngoài thiên nhiên phải đến bảy, tám tháng tuổi trưởng thành. Cá bống kèo nuôi trong ao hồ chỉ cần khoảng hai tháng rưỡi đến ba tháng, đã nằm gọn trong cái nồi lẩu nghi ngút khói chốn kinh thành. Con người cái chi cũng gấp gáp: Chơi gấp gáp, ăn gấp gáp, mánh mung xào chẻ gấp gáp… chỉ có làm thì tà tà như chim đa đa, đít bà xã xà xà! Điều cần biết để sống tốt thì họ ít biết, điều không nên biết thì họ biết rành rẽ trên mức rành rẽ ở đời. Như thịt cá bống kèo thơm và bổ dưỡng, giúp người đau yếu ăn lại sức. Nhớt bám thân cá bống kèo, chính là vị thuốc thần kỳ tăng cường tinh lực cho cái bản lĩnh của quý ông lẫn quý bà lãnh cảm. Xét cho cùng, câu ca dao dân gian ở Long Hựu từng khẳng định: Trăm con cá ngựa ngoài khơi / Không bằng cục nhớt bám nơi lưng kèo. Nó cũng chỉ ra vì sao dân nhà quê nấu cá bống kèo để nguyên nhớt, chỉ hớt bọt khi nước sôi. Đồng thời, cá bống kèo để nguyên con khi nấu nướng, vì cắt khúc cá sẽ cứng không ngon. Đó là nói cá bống kèo thiên nhiên. Cá bống kèo nuôi bằng kỹ thuật công nghệ với thức ăn tăng trọng, thì hình dáng mang vẻ con cá bống kèo thứ thiệt, nhưng chất lượng chỉ có Diêm Vương thấu hiểu và Trung tâm Ung Bướu mới rõ nguồn cơn.

“Thói thường, quyền lực càng cao; của ăn của để thừa mứa trào họng, thì người ta càng run vì sợ đau, sợ bịnh, sợ chết…lưỡi lắt léo, miệng nói cứng, nhưng thâm tâm sợ đủ thứ sợ. Vì vậy, thường lui tới sư sãi, xây cất chùa chiền, đồng bóng bói toán, vái lạy ngày đêm và thực hiện mọi phương tiện biện minh cứu cánh trường sinh bất tử. Than ôi! Tần Thủy Hoàng không làm được, những kẻ hậu sinh sao cãi nổi số trời!

“Thời hiện đại, người quay về tìm ăn cá thiên nhiên mỗi ngày một nhiều – trong đó, có cá bống kèo – Cuộc tàn sát cá mẹ lẫn cá con: Già không bỏ, nhỏ không tha đang diễn ra gay gắt và ác liệt. Con cá hủn hĩn kho tộ, bầy cá ròng ròng kho tiêu…vốn thuộc người nghèo khi xưa; nay là những món đặc sản xác định đẳng cấp của kẻ ăn. Ai dám chắc rằng: Tiểu nhân hôm nay, ngày mai không là đại nhân?”

Và, đây là đoản văn ở phân đoạn 6, như một tiếng thở dài có từ nỗi buồn chín nẫu, Cao Thị Hoàng viết:

“…Từng cánh cò rạng đông đáp đồng, báo hiệu một ngày mới trên miền quê ngoại Long Hựu. Con cá bống kèo thiên nhiên tuyệt chủng vì con người và con người chết dần bởi con cá bống kèo nuôi. Quả báo chăng? Có thể lắm chớ! Nhiều đêm Trưởng lão ngộ ra rằng: Con người chém giết nhau từ cái ăn, phúc họa từ cái lỗ miệng! Biết mà vẫn phải… mới đau!”

Với vốn sống phong phú, lại thụ đắc kiến thức uyên bác (đặc biệt về những sinh vật bé mọn, tôi tin, tương lai, sẽ có một nhà văn nghiên cứu, phê bình văn chương, bỏ công viết nguyên một cuốn sách về những cống hiến quý báu của Cao Thị Hoàng, y cứ trên những bài viết mang tính “địa phương chí” chung cho đất nước của tác giả này.

Riêng, hôm nay, ở đây, trước khi chấm dứt bài viết sơ quát của mình, tôi mong một ngày nào sẽ được gặp Cao Thị Hoàng, để nói lời cảm ơn của tôi, về những gì tôi đã nhận, hưởng được từ cõi-giới văn xuôi Cao Thị Hoàng!

Dám mong vậy thay!

(California, July 2016)

Phận Lìm Kìm(*)

…Họ Trần không chỉ nổi tiếng những hiểu biết cặn kẽ của ông về đời sống các loại sinh vật dưới nước như Lìm Kìm, Cá Thòi Lòi, Cá sặc Rằn, Cá Bống Dừa, Cá Chốt, Ba Khía… Hoặc, những sinh vật sống trên đất liền như đời “Bọ Hung”, “Chuồn Chuồn” v.v… Đó là những sinh vật quen thuộc, có thể nói là tiêu biểu cho đồng quê Việt Nam, nhưng ít được các nhà côn trùng học bỏ công nghiên cứu tường tận và khoa học như nhà văn Trần Bảo Định.

Tác giả Phận Lìm Kìm cũng nổi danh với những hiểu biết cặn kẽ của ông về lịch sử hình thành rất nhiều vùng đất, tỉnh thành ở vùng châu thổ Nam phần. Hơn thế, khi viết, Trần Bảo Định đã khéo léo nhắc tới những chi tiết lịch sử tiêu biểu những vùng đất đó, cộng với những câu ca dao, tục ngữ địa phương, vốn rất ít người biết…

Vì thế, những người say mê theo dõi các bài viết, những cuốn sách đã được in ra của họ Trần, đã không ngần ngại gọi ông là “nhà địa phương chí, kiêm côn trùng học và, lịch sử Việt Nam” duy nhất, tính tới hôm nay, của nền văn hóa truyền thống Việt.

Cũng không ít độc giả cho rằng Trần Bảo Định là một nhà Bác học của khoa Tự nhiên học mà, ở Việt Nam, vốn rất hiếm.

Theo tôi thì, hơn bất cứ nhà nghiên cứu hay viết Địa phương chí nào chúng ta có được từ trước tới nay, Trần Bảo Định là người đã nâng kỹ thuật, nghệ thuật viết Địa phương chí lên một tầm mức cao hơn: Tầm mức quốc gia – Vượt khỏi giới hạn của lũy tre, ao cá, đình làng…

Du Tử Lê

Ngày, 29.6.2017/ Dutule.com

………………………………………………………….

(*) Thi sĩ Du Tử Lê về thăm quê Việt Nam và mới rõ tác giả Cao Thị Hoàng là bút danh của Trần Bảo Định. Thi sĩ Du Tử Lê (1942 – 2019), tên thật là Lê Cự Phách, sinh năm 1942 tại Kim Bảng, Hà Nam. Ông là nhà thơ có tiếng tại miền Nam từ trước 1975. Ông mất lúc 8 giờ 6 phút (theo giờ Mỹ), tối thứ hai 7.10.2019 tại nhà riêng của ông ở Garden Grove (Mỹ), hưởng thọ 77 tuổi.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác