ELENA PUCILLO TRUONG: ĐI NGƯỢC ĐỂ XUÔI DÒNG

Ngày đăng: 6/10/2018 10:26:17 Chiều/ ý kiến phản hồi (2)

Trong làn sóng di dân của nhân loại từ xưa đến nay, người ta thường bỏ nơi nghèo khó để đến xứ giàu sang, bỏ nơi lạc hậu để đến vùng văn minh… Nhưng ở thế kỷ XXI này, có một nữ tiến sĩ người Ý lại đi ngược so với mọi người; chị bỏ nơi giàu sang, văn minh để về với nghèo khó, lạc hậu. Đó là Elena Pucillo Truong.

Nhà văn Trần Hữu Hội đã từng có một nhận định rất chính xác về Elena: Chị chọn định cư ở nước ngoài không vì mục đích kinh tế, chính trị, mà là vì tình yêu, đơn – thuần – vì – tình – yêu. Tình yêu đã khiến chị đi ngược so với nhiều người, chấp nhận một đời sống vật chất và tiện nghi thua kém xa quê mẹ, để rồi thích nghi và yêu mến quê chồng như chính nơi chôn rau cắt rốn của mình. Từ tình yêu với một người, Elena yêu muôn người; từ tình yêu với mảnh đất Bình Định quê chồng, chị yêu luôn cả đất nước Việt Nam; từ tình yêu với “bánh ít lá gai”, chị yêu luôn cả mắm ruốc tương cà…

Elena đã đi ngược. Nhưng đi ngược để xuôi dòng.

Elena xuôi theo dòng văn hóa Việt từ ngôn ngữ, ẩm thực, sở thích, tính cách, tâm hồn. Chị nói khá tốt tiếng Việt. “Muốn ăn bánh ít lá gai, Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi” là câu ca dao Elena thích ngân nga mỗi khi mời ai đó cái bánh ít mới mang về từ quê chồng. “Bún bò Huế bị thiếu ruốc mà cũng gọi là bún bò à ?!” – Chị làm cả chủ quán lẫn thực khách ngạc nhiên khi buông ra câu nhận xét rất “điêu” ấy. Một người bạn tóc bạc đùa với Elena rằng: “Mai mốt anh phải đi nhuộm tóc cho trẻ. Anh nhuộm màu vàng giống em, được không hả Elena?” Rất nhanh, câu trả lởi tỉnh queo của Elena khiến mọi người ôm bụng cười lăn: “Anh nhuộm màu chuối non luôn đi! Cho nó trẻ!” Khi quyết định chọn Việt Nam để sống trong những tháng năm còn lại, điều làm người bạn đời của Elena lo ngại nhất là nếu anh ra đi trước, chị sẽ ra sao. Người thân, bạn bè thì nhiều, nhưng làm sao thân thuộc bằng thành phố Milano của chị. Vả lại, các vấn đề như an sinh xã hội, chất lượng sống và chăm sóc sức khỏe thể chất lẫn tinh thần cho người cao tuổi cũng không bằng các nước châu Âu. Chị có thể chịu được cô đơn, có cảm thấy lạc lõng, tủi thân khi không có anh không? Elena đã trấn an anh bằng câu trả lời khiến tất cả những ai nghe thấy, hoặc nghe kể lại đều muốn ôm siết lấy chị: “Anh yên tâm! Nếu cần, em sẽ vào chùa rửa chén để có thể sống tiếp ở đây đến trọn đời.”

Thích mặc áo dài, đi chùa, tham gia các dịp lễ hội, hiếu hỷ với tâm yêu thương và lòng thành kính, Elena còn đi gần khắp đất nước Việt Nam. Lên rừng, xuống biển, ra phố, về quê… Hầu như không có rào cản, không có khoảng cách văn hóa phương Đông và phương Tây, Ý và Việt Nam; hầu như không cần phải làm quen, cố gắng thích nghi, hòa nhập, Elena đã sống, hiểu, cảm với đất nước và con người Việt Nam tự nhiên nhi nhiên, như đây chính là nơi đã từng được chôn rau cắt rốn và sẽ là nơi lá rụng về cội của chị. Vì thế, trong những trang viết của Elena, ta không chỉ bắt gặp cảnh sắc, con người, đời sống… mà còn được thấm thía cái Hồn Việt có một không hai. Nó khiến ta yêu thương hơn, trân quý hơn những giá trị độc đáo này.

Khó có thể thống kê hết từ xưa đến nay có bao nhiêu câu nói hay về tà áo dài của phụ nữ Việt. Trong số đó, theo tôi, câu của Elena đáng được xếp vào hàng đầu. Đó là kiểu áo, mà “người phụ nữ nào có cơ hội mặc nó sẽ cảm thấy mình là một bà hoàng”. Theo chị, áo dài, dù chỉ một màu hay được thêu những hoa văn tuyệt đẹp thì “nó vẫn luôn lịch sự và quyến rũ”(Tà áo lụa giữa những cánh sen). Thể hiện mỹ cảm về chiếc áo dài bằng những ngôn từ như thế, quả là đáng nể phục và mến phục!

Làm dâu của đất võ Bình Định, Elena biết Quang Trung là “một vị vua thông minh và cũng là một nhà lãnh đạo tài ba từng chiến thắng ngoại xâm và “thống nhất đất nước sau bao năm nồi da xáo thịt vì nội chiến” (Lễ hội Tây Sơn, Bình Định: Kỳ diệu và tự hào); biết “Bình Định là cái nôi xuất phát loại hình nghệ thuật hát bội, nhờ sự đóng góp của một danh nhân địa phương tên là Đào Tấn”; biết trang phục của diễn viên hát bội có những nét đặc thù so với y phục sân khấu truyền thống Trung Hoa.

Elena có thể kể vanh vách nguồn gốc quý tộc của nhà thơ – “quận chúa” Tôn Nữ Hỷ Khương: chắt nội của Tuy Lý Vương Miên Trinh, con gái của nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị; có thể cảm được bài thơ Khi còn gặp nhau của Hỷ Khương và so sánh nó với bài thơ Quý nương, ta đi xem bông hồng của Pierre de Ronsard và Cái hồ của Alphonse de Lamartine để hiểu thông điệp “Nắm bắt khoảnh khắc” vì cuộc sống rất mong manh mà nhà thơ Tôn Nữ gửi gắm.

Đối với Elena, từ chỗ thích hiểu biết, khám phá đến “hiểu” chỉ là một khoảng cách rất ngắn. Chị hiểu về phong tục và lễ cúng cô hồn tháng Bảy, hiểu các lễ hội và nghi thức truyền thống khác, hiểu tâm lý mẹ chồng nàng dâu. Trong cái “hiểu” của Elena có sự yêu thương, quý trọng văn hóa của quê chồng; đồng thời nó là kết tinh từ cái nhìn tinh tế của người biết quan sát và thẩm thấu văn hóa. Mỗi địa danh, danh lam thắng cảnh của đất nước vừa rất mới lạ, lại vừa rất đỗi thân quen với chị. Cảm xúc của Elena qua từng trang viết vừa non tơ vừa già dặn, và có những con chữ như bước ra từ ký ức – một thứ ký ức được tích lũy qua bao năm tháng tìm hiểu, yêu mến dù chưa một lần đặt chân đến nơi chốn ấy. Vì vậy, dàn hòa tấu của rừng chim Trà Sư được chị cảm nhận không chỉ bằng thính giác mà còn bằng cảm xúc chan hòa giữa tình, cảnh và âm thanh: “Trong không gian, tiếng chim ríu rít trầm bổng trong một bản hòa tấu không ngừng. Tưởng như tất cả các loài cùng đồng thanh hát bài hát ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, ca ngợi cuộc sống yên bình bằng những giai điệu nồng nàn, làm cho khách phương xa là tôi cũng tự dưng thấy mình thật gần gũi với khung cảnh hoang dã nơi đây” (Trà Sư, thánh địa của loài chim). Hà Nội ở thế kỷ XXI trong văn của Elena vẫn còn lưu giữ “nét đẹp bí ẩn” đầy quyến rũ. “Đã từng đọc các trang sách viết về những nơi này, bị lôi cuốn bởi những huyền thoại và biểu tượng”, thế nên Elena có cảm giác như mình “vừa quay lại tuổi thơ và đang lắng nghe những câu chuyện cổ tích về những con rồng và các cô tiên, những chiến binh dũng cảm hay về con rùa bí ẩn” khi thong thả bước trên băm sáu phố phường. Giống như một giấc mơ giữa ban ngày, chị “muốn mình được bay như một cánh chim vừa thoát khỏi lồng, lơ lửng trên những con đường thuốc, với những dụng cụ chưng cất đang hâm nóng bát thuốc trường sinh hay cưỡi trên lưng một con cá vàng bơi dọc theo sông Hồng” (Hà Nội, nét đẹp bí ẩn). Giữa những năm tháng ồn ả, xô bồ này, có được rung cảm nên thơ như thế về Hà Nội chắc hẳn là do người viết đã không nhìn ngắm bằng mắt, mà nhìn ngắm bằng tâm tưởng đầy mến yêu với mảnh đất kinh kỳ tự ngàn xưa. Cảm giác như chị đã từng sống nơi đây và bây giờ có dịp trở về chốn cũ, lòng đang chạm vào những vết tích thời gian làm cuộn sóng tâm hồn.

Trong tập truyện và bút ký Vàng trên biển đá đen, phong cảnh, con người, văn hóa thực thể và phi thực thể của mảnh đất hình chữ S đi vào trang văn của Elena càng ngập tràn yêu thương. Cát trắng ở Phú Quốc, cát vàng ở Quy Nhơn, cát xám ở Vũng Tàu, Elena khiến ta ngỡ ngàng về những sắc màu trên dải biển miền Trung đầy nắng gió. Vàng trên biển đá đen của chị còn đưa ta về với Hà Nội rêu phong, xứ Huế cổ kính, Đà Lạt khói sương, Vũng Tàu sôi động…; vào những ngôi chùa nhỏ để thắp nhang khấn Phật hay cài hoa hồng lên ngực trong mỗi tiết Vu Lan; lên non thiêng Yên Tử để thanh tẩy tâm hồn; cheo leo cùng biển đá Hà Giang để trân quý từng tấc đất của tổ quốc. Cảm nhận của Elena về Hà Giang thấm đẫm nỗi xót xa. Ở nơi đó, có những những “cơn gió lạnh rít qua khe cửa”, có con người cõng đất lên đắp vào hốc đá để gieo trồng; có các bé trai mặt đỏ gay vì nắng gió và các bé gái đầu bù tóc rối cố gắng vuốt lại tóc với bàn tay được làm ẩm bằng nước bọt… Ở nơi đó, có “tiếng bản lề rít lên kẽo kẹt” khi cô giáo đẩy cánh cửa bước vào lớp học, ánh mắt buồn bã nhìn xuống “những dãy băng thấp đã từ lâu trống vắng”… Những miêu tả trên là sự kết tinh của óc quan sát tỉ mỉ, tinh tế, nghiêm túc của một nhà văn; đồng thời ta có thể cảm nhận được tâm tình thiết tha, nỗi đồng cảm sâu sắc của Elena với vùng đất phên giậu của tổ quốc.

Đọc những trang viết của Elena, tôi không còn muốn luận cái hay dở của văn chương, chỉ muốn đo lường cảm xúc của chính mình khi được Hiểu Việt Nam từ chị. Đó cũng là một cách đi ngược. Ngược bởi vì tôi được hiểu thêm về quê hương mình từ một người con của kinh đô thời trang Milano danh tiếng, mà lẽ ra, đó phải là những điều tôi và nhiều người Việt Nam nữa giới thiệu với chị. Cái ngược đó khiến tôi thêm mến yêu và thầm cảm ơn chị. Bởi, chị đã đến đây, ở lại mảnh đất này, đã đi ngược để xuôi dòng – một dòng thôi – thủy chung như nhất. Đó là dòng của “Thuyền theo lái, gái theo chồng”. Elena đã “theo”, đã “về”, đã “ở lại”. Nhưng rốt cuộc, chị khiến những ai từng tiếp xúc hoặc đọc văn của chị phải thừa nhận một điều: Chị được sinh ra ở nơi này, đã từng và đang là chủ nhân thật sự của tương cà mắm ruốc, của rau răm rau húng, của muối mặn gừng cay, của ngõ hẻm, khói bụi và kẹt xe… trong mỗi giây, mỗi phút, mỗi ngày.

Những truyện ngắn, bút ký của Elena đến được với người đọc Việt Nam thông qua nhà văn – dịch giả Trương Văn Dân – người bạn đời của chị. Sự đồng điệu trong tâm hồn, quan niệm sống và tình yêu văn chương; khả năng sử dụng ngôn từ nghệ thuật của tiếng Việt một cách điêu luyện đã giúp anh chuyển tải thành công những gì người viết muốn diễn tả. Như song kiếm hợp bích, cặp đôi tác giả – dịch giả độc đáo này đã làm đẹp cho đời bằng những trang văn cộng hưởng tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hương và tình yêu văn học. Có thể, Elena chưa phải là nhà văn tên tuổi; sáng tác của chị cũng chưa chiếm vị trí vững chắc trên văn đàn. Tuy nhiên, trong lịch sử văn chương Việt, vợ say mê viết, chồng miệt mài biên dịch tác phẩm của vợ là một hiện tượng độc đáo mà Elena và Trương Văn Dân lưu lại dấu ấn của mình giữa đông đảo người cầm bút tham gia cuộc chơi ngôn từ.

Lẽ thường, khi có ai đó nhớ về bạn bằng một câu chữ của chính bạn. Hoặc khi câu chữ nào đó của riêng bạn được nhiều người thân quen sử dụng như một thục ngữ hoặc biệt ngữ thì bạn đã thực sự sống trong tim họ. Elena đã sống trong tim nhiều người khi hai từ “Ôm mạnh!” của chị được bạn bè khắp nơi sử dụng với niềm hân hoan và cảm mến, khi nhan đề tập truyện ngắn Một phút tự do của chị được sử dụng trong ngôn ngữ giao tiếp của mọi người.

Đó là những từ ngữ tiếng Việt mà chúng tôi có được từ chị, vừa vụng về khập khiễng đến ngộ nghĩnh bởi thay vì “Ôm chặt” lại được nói thành “Ôm mạnh”; vừa bóng bẩy thành thục nên thơ khi trêu đùa ai đó chỉ được phép có “một phút tự do”. Và như vậy, Elena cũng đang đưa chúng tôi đi ngược để xuôi dòng – dòng tình bạn – dòng tình yêu con người, yêu văn chương chảy mãi trong đời.

Yêu những gì chị đã sống và đã viết. Ôm mạnh, Elena!

 

Huế, mùa thu 2018

   Nguyễn Thị Tịnh Thy

 Hính 1:  Elena & nhà văn Trương Văn Dân và anh chị Đặng Châu Long

Hình 2:  Elena và Nguyễn Thị Tịnh Thy

 

 

 

Có 2 bình luận về ELENA PUCILLO TRUONG: ĐI NGƯỢC ĐỂ XUÔI DÒNG

  1. Nguyễn Thị Hạnh nói:

    Đã gặp anh chị Elena – Dân trong một lần họp mặt trang nhà, đã từng ngưỡng mộ anh chị vô cùng, nhưng không viết về anh chị hay thiệt hay như Tịnh Thy viết.

  2. NHA nói:

     Để giúp quý bạn tiện biết về Ông Bà Trương:
    Bà đầm Ý làm dâu xứ nẫu

    (PL)- Ẩn sau khuôn mặt rất Tây với sống mũi cao, mái tóc bạch kim là một tâm hồn đậm chất Việt. Không chỉ ăn được mắm tôm, sầu riêng, Elena Pucillo còn nói chuyện bằng tiếng Bình Định quê chồng khiến bạn bè cười… thâu rầu!

    • 12-chot_qdng

    Ngoài dịch sách cho chị Elena Pucillo Truong, anh Trương Văn Dân còn sẵn sàng làm “xe ôm sáu sao” cho vợ. Ảnh: HT

    Cặp chồng Việt – vợ Ý Trương Văn Dân và Elena Pucillo vốn là mối tình đầu của nhau. Sau gần 40 năm sống ở Ý, họ đã bỏ ngang tất cả công việc để chuyển hẳn về Việt Nam. Là tiến sĩ ngôn ngữ và văn học nước ngoài, chị Elena Pucillo Truong đi dạy tiếng Ý và Văn hóa Pháp tại Trường ĐH KH-XH&NV TP.HCM, dạy tiếng Ý ở nhạc viện và viết sách bằng tiếng Ý. Anh Trương Văn Dân thì ngoài viết và dịch sách còn kiêm luôn nhiệm vụ làm “Honda ôm” đưa đón vợ đi dạy, dịch sách của vợ sang tiếng Việt.

    Người đàn bà Ý “điên”

    Ngay từ khi Elena Pucillo còn là một thiếu nữ, biết chị yêu chàng trai người Việt Nam thì bạn bè chị lúc đó rất ngạc nhiên. Họ đoán già đoán non mối tình này không chóng thì chày cũng tan vỡ như không ít đôi Việt-Ý khác. Thế rồi mối tình kéo dài 13 năm trước khi diễn ra đám cưới, họ đâm ra khó hiểu. Và đến khi chị Elena quyết định đến quê chồng sinh sống hẳn thì họ đoán chắc chị “bị điên”.

    Hẳn nhiên anh Dân và chị Elena không quan tâm lời người ngoài cuộc bởi tình yêu anh chị dành cho nhau thế nào, tình yêu ấy đến từ đâu thì chỉ có mỗi họ biết rõ. Ngày ấy, anh là chàng du học sinh mới 19 tuổi ngơ ngác đặt chân lên đất Ý. Trong cái TP Milano ấy chẳng biết ông trời có ý đồ gì không mà xui khiến ngày hôm đó cô nữ sinh Elena Pucillo 16 tuổi bỗng đi bơi ở cái hồ bơi xa lắc khu nhà mình với lý do hồ bơi gần nhà bị hỏng. Cuộc gặp tình cờ của anh Dân và chị tại hồ bơi đã để lại trong nhau ấn tượng tốt đẹp. Với anh, chị là một thiếu nữ xinh xắn, đa cảm. Còn với Elena, anh là chàng trai rất hiền lành, chân thành mà cũng đầy ý chí. Sau này cả hai nhận ra họ không thể sống thiếu nhau một khi họ có chung một tâm thức thời đại của một thế hệ trẻ trưởng thành từ hai đất nước cách xa nhau, cùng có lòng nhân hậu và chung tình yêu vô tận với văn chương, nghệ thuật. Là đứa con trong gia đình mà cha mẹ ly hôn, Elena như cảm thấy được bù đắp tình thương với gia đình rất mực gắn bó chan hòa của anh Dân. Và trên hết vượt lên trên mọi sự tầm thường và bình thường, vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn chính là hấp lực mà họ đã tìm thấy ở nhau để người này cứ không ngừng trầm trồ về người kia. Anh Dân đã đem điều này vào tản vănMilano – Sài Gòn: Đang về hay sang?: “Elena, lúc nào cũng cô độc, thui thủi, việc gì cũng phải tự lo, thế mà luôn ân cần và vui vẻ, lúc nào cũng muốn mọi người xung quanh được chăm sóc một cách chu đáo. Nhiều lúc tôi nghĩ là cô ta còn “nợ” tôi từ tiền kiếp. Và kiếp này “phải” trả”.

    “Làm cô dâu Việt rất vui”

    Năm 1985, thời ít người nước ngoài đến Việt Nam, nếu có thì đa số là người Liên Xô, nói chi đến đám cưới có chú rể người Việt và cô dâu Tây tóc vàng, da trắng bóc. Thế nên ai gặp Elena cũng “xổ” tiếng Nga. Lần đầu Elena về Bình Định quê chồng, một đám người đủ già trẻ bé lớn xúm quanh xin… sờ chiếc mũi của chị để xem làm thế nào mà nó cao vút được như vậy.

    Cha của anh Dân vốn cũng là dược sĩ và giỏi tiếng Pháp nên có thể nói chuyện thoải mái với con dâu bằng tiếng Pháp. Anh Dân cho biết cha chồng và nàng dâu nói chuyện rất hợp và rất quý nhau. Cha chồng còn đặt cho con dâu cái tên tiếng Việt na ná tên thật của Elena là Lê Thị Lê Na. Elena luôn coi cái tên này là kỷ niệm đẹp mà cha chồng ban tặng mình trước khi ông qua đời vào năm 1987.

    Chuyện mẹ chồng Việt và cô dâu Ý thoạt tiên mới thật là hài. Elena kể, năm 1990, mẹ chồng sang Ý và ở lại chơi với vợ chồng chị nửa năm. Mẹ chồng, theo lời Elena chỉ biết nói “tiếng Bình Định” chứ không biết nói tiếng Việt. Mà chị trong thời gian đầu mới làm con dâu thì chị chỉ biết tiếng Việt bập bõm. Họ chỉ còn có cách giao tiếp với nhau đến mỏi cả tay nhưng tuyệt đối kiên nhẫn và thông cảm cho nhau. Một lần mẹ chồng nàng dâu đi siêu thị. Cứ Elena bỏ chiếc chảo vào giỏ hàng, sơ suất quay đi thì mẹ chồng len lén đem trả lại quầy hàng. Phải đến mấy lần như thế thì chiếc chảo cũng về được đến nhà trong nỗi hoang mang của cả hai. Thắc mắc của hai bên đã được người thông ngôn là anh Dân làm rõ: Mẹ chồng không hiểu sao con dâu lại lẩn thẩn đi mua làm gì cái chảo bị thủng chằng chịt, còn con dâu không thể giải thích với mẹ chồng rằng chẳng qua chị mua nó để… nướng hạt dẻ. Hiểu ra rồi mẹ chồng, nàng dâu lại ôm nhau cười ngất. Ấy là chuyện của gần 40 năm trước, chứ bây giờ Elena nói tiếng Việt thì khỏi chê!

    Người mẹ chân quê thích ăn trầu cau đã thương con dâu mình bằng tình thương hết sức hồn hậu, mộc mạc. Hiểu con dâu sống ở Việt Nam xa quê hương, gia đình và bạn bè thân thương nên bà luôn tìm cách làm cho chị cảm thấy có người thân bên cạnh. Chính bà là người rước vong linh mẹ ruột của Elena ở Ý sang Việt Nam rồi gửi lên chùa nên lúc nào chị cũng cảm thấy ấm áp và không đơn độc trên quê chồng. Cũng trong lần mẹ chồng sang Ý, biết mẹ chồng không quen sử dụng đồ điện, hơn nữa lại là các thiết bị hiện đại nên ngoài việc hướng dẫn cho mẹ từng li từng tí các tiện nghi khác trong nhà, riêng bình nước nóng lạnh giao cho mẹ sử dụng thì chị không yên tâm nên chị trở thành người tắm cho mẹ hằng ngày.

    Hiện nay người mẹ chồng đã 94 tuổi nhưng vẫn còn rất minh mẫn đã chuyển từ Bình Định vào TP.HCM sống với gia đình người con trai cả. Chị và mẹ chồng thường xuyên gặp gỡ chăm lo cho nhau. Mẹ dạy chị nấu ăn hầu hết món Việt. Theo chân mẹ, chị đi thăm rất nhiều chùa và trở thành Phật tử. Mùa Vu Lan mỗi năm, chị lại vừa xốn xang vừa tự hào cài lên ngực áo mình một bông hồng trắng và một bông hồng đỏ. Hỏi cảm xúc khi làm một cô con dâu Việt, Elena cười tươi: “Rất thương và rất vui!”.

    Không chỉ làm con dâu Việt mới vui, với Elena làm người Ý hồn Việt càng vui lạ. Chị nghe nhạc Trịnh Công Sơn từ thuở đầu những năm 1970 trên đất Ý. Đi tiệc tùng cứ thích mặc áo dài. Món Việt nào chị cũng ăn ngon lành từ sầu riêng đến mắm tôm. Chị ăn sầu riêng ngon lành đến nỗi anh Dân vốn không ăn được nhưng nhìn tức mà phải tập ăn! Gặp ai chị cũng xởi lởi tay bắt mặt mừng bằng tiếng Việt. Bình thường chị nói giọng Sài Gòn nhưng lúc cao hứng chị phang luôn giọng Bình Định, giọng Quảng, rồi cả giọng Huế khiến mọi người ôm bụng cười.

    Rù rì vợ viết, chồng dịch

    Một phút tự do là cuốn sách thứ hai do anh dịch cho chị vừa được NXB Văn hóa Văn nghệ phát hành. Họ như đôi chim cúc cu, lặng lẽ yêu và cống hiến cho văn hóa Việt.

    Vốn là người nghiên cứu và phát triển dược phẩm với chuyên môn và bằng cấp “xịn” của châu Âu nhưng anh Trương Văn Dân lại rẽ ngang viết và dịch sách. Ngoài sáng tác hai tập truyện ngắn Hành trang ngày trở lại và Milano – Sài Gòn: Đang về hay sang?, anh còn gây ấn tượng cho văn đàn Việt Nam bằng cuốn tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới mưa.Trong tiểu thuyết này, anh lồng ghép vào đường tình và số phận trắc trở của nhân vật chính những vấn đề bức thiết của thời đại. Anh đã chỉ ra một cách nhẹ nhàng mà đầy tính thuyết phục về sự vô nghĩa và phi lý của xã hội công nghiệp hóa và toàn cầu hóa. Anh chỉ rõ những nhu cầu ích kỷ, tham vọng của con người.

    Song hành với viết, có một công việc khác đem lại cho anh Dân nhiều hứng thú không kém, đó là dịch tác phẩm của vợ. Cặp vợ chồng này có cách làm việc khá lạ lùng: Vợ không bao giờ hé răng với chồng mình định viết gì, ý tưởng thế nào mà chỉ lặng lẽ viết. Rồi đột ngột vợ đem “trình làng” tất cả với chồng. Lúc đó, người chồng tha hồ đọc, thổn thức và ngạc nhiên với thế giới nội tâm phong phú cũng như trí tưởng tượng tuyệt vời của vợ. Anh nói anh thích đón đợi và tận hưởng những cảm xúc bất ngờ này. Đôi khi anh thấy phảng phất bóng dáng của chính mình qua một vài nhân vật trong các truyện ngắn mà chị dựng nên. Việc chuyển ngữ từ tiếng Ý sang tiếng Việt các sách của chị còn ai hiểu và làm tốt công việc này hơn anh. Cách dịch của anh là cố gắng duy trì nhiều nhất tư duy, cá tính và văn phong của chị. Mà tư duy và văn phong của chị thì nói như nhà văn Dạ Ngân: “Truyện nào cũng dung dị và có dư âm (…) Chúng ta nhìn thấy một trái tim hiểu biết, dịu dàng với một cách tư duy không như người Việt”. Trước Một phút tự do,anh Dân cũng đã dịch cho chị tập truyện Bóng của ngày.

    Nếu trong một cuộc hội ngộ văn chương của làng văn Việt bạn nghe một giọng nữ nói tiếng Việt theo cách là lạ, nếu tình cờ bạn đi ngang chung cư Ngô Tất Tố ở quận Bình Thạnh mà trông thấy một tóc đen chở một tóc bạch kim đang cười toe toét bằng xe máy thì đó chính là đôi vợ chồng “cúc cu” Trương Văn Dân và Elena Pucillo Truong.

    HỒNG THU

    Nguồn:https://xunauvn.org/tag/elena-pucillo/

Trả lời NHA Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác