Ngày ba mươi tết, chuối trên bàn thờ
Khi tôi bắt đầu chập chững biết Tết là gì thì đã thấy trên bàn thờ nhà mình hai nãi chuối vàng hươm an vị hai bên chiếc lư đồng trên bàn thờ. Và cứ thế, tết nào cũng vậy, nhà nào cũng vậy, cả từ đường dòng tộc, rồi thì đình chùa miếu mạo cũng vậy, không bao giờ thiếu nãi chuối. Ai là người Huế chắc đã quen thuộc với hình ảnh này. Quen thuộc đến mức, nó trở nên như một thứ quả phẩm đương nhiên phải có trên bàn thờ, trong bất cứ lễ nghi nào. Chuối không chỉ hiện diện trên bàn thờ ngày tết mà luôn có mặt trong ngày giỗ kỵ, cúng bái (cúng rằm,cúng mùng một, cúng đất, cúng tổ, cũng nhà mới…), đám cưới và cả đám tang. Ngày giỗ ông nội, cha tôi soạn sửa bàn thờ và bao giờ cũng hỏi: “Đã mua chuối chưa?”.
Khoảng hai mươi tháng chạp là mạ tôi đã bắt đầu đi chợ tết. Mỗi ngày mua dần vài thứ, và có hai thứ quan trọng nhất không thể thiếu là thịt heo và chuối. Giáp tết chuối đã bày la liệt trong nhà. Mạ nói phải mua hai buồng chuối mới đơm đủ các bàn thờ: thờ Phật, thờ ông bà, thờ bà bổn mạng (của người phụ nữ), thờ ông táo trên bếp, thờ vong linh cô hồn ngoài sân… Muộn một ngày là chuối tăng lên một giá. Đợi đến ba mươi thì có khi không mua nổi nãi chuối hoặc phải mua chuối xấu mà giá trên trời. Những năm khó khăn, chuối vẫn đắt như… chuối ngày tết. Mạ tôi phải mua cam, bưởi, đào, mận… thay cho chuối mà nét mặt có vẻ không vui. Mạ van vái ông bà: “Năm ni không có chuối, con xin cúng tạm mấy trái ni, mong ôn mệ vui lòng!”.
Chưa đợi đến tết, ngày rằm, mồng một, chuối ở Huế cũng đã tăng giá. Ảnh: Tiến Long
Nhưng không phải thứ chuối nào cũng đem cúng. Người Huế tối kỵ cúng chuối bà lùn vì họ cho là “tục”. Chuối tiêu cũng không cúng vì cái tên không đẹp. Chuối sứ (chuối hột) thì chỉ dành làm thuốc. Vì vậy, chuối cau, chuối mốc là hai thứ chuối được chuộng nhất. Ở Huế còn có thêm loại chuối như chuối cau nhưng trái to hơn, tròn trịa và thơm phức, xưa chỉ dành cho vua nên gọi là chuối ngự.
Bàn thờ nhỏ thì bày một nãi, bàn thờ nhỏ hơn thì chỉ cúng ba hoặc năm trái. Bàn thờ lớn thì xây hai nãi trên một quả bồng. Với những bàn thờ đại trong các lễ lớn, người ta xây một lúc cả vài chục nãi chuối, bên trên xếp hàng chục loại quả phẩm khác, trông như một đài hoa quả với đủ sắc màu.
Tôi đã ăn mấy chục cái tết và không biết bao nhiêu là giỗ kỵ, cúng bái, đám hỏi, đám cưới… ở xứ Huế với nãi chuối không bao giờ thiếu trên bàn thờ. Quen đến mức không còn nghĩ gì về thứ phẩm vật mặc nhiên phải có mà hình như không ai biết nó mang ý nghĩa triết lý sâu xa gì. Cho đến một ngày cuối năm, nhìn những đoàn xe tải ùn ùn chở chuối từ Đồng Nai, Khánh Hòa ra Huế, người bạn Sài Gòn gọi ra hỏi: “Tại sao tết Huế là phải có chuối?”. Tôi mới giật mình và nhận ra cái điều quen thuộc ấy lại là một chuyện rất lạ của “nước Huế”. Ừ nhỉ, sao lại phải: ngày ba mươi tết chuối trên bàn thờ?
Tôi mang câu hỏi đó đến gặp ông già Hồ Tấn Phan, một nhà nghiên cứu văn hóa ở Huế thường hay quan tâm đến những chuyện tưởng là nhỏ nhặt nhưng hóa ra là hóc búa không ai trả lời được. Ông Phan cũng bất ngờ: “Không biết từ đâu ra cái tục cúng chuối. Trong các sách sử ghi chép điển lệ tế tự cúng bái của triều Nguyễn, cũng như gia phả các dòng họ hay tài liệu của các làng cũng không thấy nói cụ thể về thứ quả phẩm này”. Theo hướng dẫn của ông Phan, tôi tìm xem trong sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của triều Nguyễn, là cuốn sách ghi chép các điển lệ, quy chuẩn và các sự kiện liên quan đến tổ chức và hoạt động của triều đình. Trong phần ghi điển lệ về tế lễ, có ghi rất rõ về những phẩm vật cúng tế (trâu, dê, lợn, ngỗng, gà, xôi, bánh…) nhưng hoa quả thì chỉ ghi: mười mâm quả phẩm, hoặc mâm quả phẩm mười loại trái. Sách viết về việc thờ cúng của người Huế của tác giả Trần Đại Vinh, Lê Nguyễn Lưu, Huỳnh Đình Kết… cũng không thấy nói gì về thứ quả phẩm không bao giờ thiếu trên bàn thờ Huế này.
Nhưng trong một bài khảo cứu rất công phu của một vị giáo sĩ Hội thừa sai Paris tên A. Chapuis về “Ngôi nhà An Nam theo quan điểm tôn giáo”, đăng trên tạp chí B.A.V.H tập 24 năm 1937, phần mô tả các lễ cúng trước, trong và sau khi hoàn thành ngôi nhà, hầu như đều nhắc đến nãi chuối. Lễ nào cũng có quả phẩm là nãi chuối bên cạnh đĩa xôi, con gà, hương đèn, vàng mã… Một bức tranh khảo họa chi tiết gian chính ngôi nhà dành thiết bàn thờ tổ tiên, có một nãi chuối nằm trên quả bồng (cái đĩa có chân đế dùng để đặt hoa quả thờ cúng). Xin nói thêm, ngôi nhà An Nam mà ông tây này khảo tả là ngôi nhà rường ba gian hai chái của Huế.
Bức tranh khảo họa chi tiết gian chính ngôi nhà dành đặt bàn thờ tổ tiên, có một nãi chuối nằm trên quả bồng.
(Ảnh chụp lại trong tạp chí B.A.V.H tập 24 năm 1937)
Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan cũng cho biết thêm trong các tranh cổ về Huế cũng đã thấy nãi chuối trên bàn thờ, bên trên nãi chuối vàng có thêm trái bưởi xanh, tạo nên sự hài hòa, cân đối. Theo ông Phan, tục cúng chuối của người Huế có thể bắt đầu từ vẻ đẹp cân đối, hài hòa ấy. Nãi chuối có hình dáng như một bàn tay xòe ra đều đặn, phủ kín quả bồng, bên trên có thể đặt thêm bất cứ trái gì: trái bưởi, quả cam, trái thanh long, thậm chí mận, đào, ổi… là có thể tạo ra một phẩm vật trang trọng để dâng cúng tổ tiên. Màu vàng trang nhã của chuối cũng là một lý do để chọn làm màu sắc chủ đạo của việc thiết trí bàn thờ. Người theo đạo Phật thì cho rằng nãi chuối là bàn tay của Phật (phật thủ) xòe ra che chở nhân gian. Ông Phan nói cứ thế mà dần trở thành nếp và qua năm tháng thành như một tập tục: tục thờ cúng chuối.
Một nếp sống đã quen thuộc với người Huế, quen đến mức họ không quan tâm nó ra đời từ bao giờ. Chỉ biết hễ có cúng bái, giỗ kỵ là đi chợ mua chuối. Ngày mùng một, ngày rằm là chuối xanh, chuối vàng chen rợp cả chợ. Ngày tết đương nhiên càng không thể thiếu nãi chuối trên bàn thờ tổ tiên!
Minh Tự
———————————————————————————————
Trong ngôi nhà của người Huế, gian trung tâm luôn được dành cho bàn thờ tổ tiên. Theo đúng qui cách thì bàn thờ phải có ba án: án trong cùng (án nội) là nơi đặt bài vị, di ảnh và bát hương người quá cố. Án ngoài cùng, thường gọi là hương án, là một cái bàn cao hơn, trên đó đặt các đồ thờ được bài trí: hai bên là hai cây đèn, ở giữa là chiếc lư đồng, xen giữa đèn và lư là hai bát đựng nước sạch; hàng tiếp sau là một chiếc bình hoa đối xứng với quả bồng để đặt quả phẩm. Phía sau lư đồng là chiếc kỉnh dựng (giống như một bức bình phong, bằng gỗ khảm xà cừ), cạnh đó là chiếc lư nhỏ để xông trầm. Giữa hương án và án nội là bàn soạn, một chiếc bàn thấp hơn hai án thờ, là nơi soạn mâm cơm, khay trà để cúng ông bà. Nhà nào có thờ Phật thì trước hương án là bàn thờ Phật (nằm ở ngoài cùng).
(Theo sách “Tín ngưỡng dân gian Huế” – Trần Đại Vinh, NXB Thuận Hóa 1995)
——————————————————————————————–
Đọc bài này mới thấy sự khác biệt phong tục của các vùng miền. Ở miền Nam, ngày tết không bao giờ chưng chuối, vì sợ chúi đầu chúi cổ ( đồng âm), cũng không chưng cam , ngại cam khổ. Họ thích chưng tắc, chưng quýt vì chữ kiết là tốt. Mâm ngủ quả gồm có mảng cầu, dừa, đu đủ , xoài.
Cảm ơn anh. Nhờ coment của anh em mới biết người miền Nam không thờ chuối, cam trong ngày tết.