BỘ LÔNG
Truyện Bộ lông là câu chuyện tưởng chừng xoay quanh một món quà sinh nhật lại trở thành màn phơi bày bản chất ích kỷ, tham vọng và sự ganh ghét ngấm ngầm trong tình bạn. Bằng giọng văn châm biếm khéo léo và một cú “xoay chuyển” cuối truyện, Saki đem lại một tác phẩm vừa hài hước, vừa đượm màu mỉa mai cay độc.
Nhân vật trung tâm là Suzanne, một cô gái trẻ mong mỏi được người họ hàng xa, ông Bertram Kneyght, tặng cho một món quà sinh nhật thật xứng đáng với sự giàu có của ông. Suzanne thầm khát khao một bộ lông thú, đặc biệt là lông chồn bạc, bởi cô tin rằng khi tới Davos, cô sẽ cảm thấy thua kém nếu không có thứ xa xỉ phẩm ấy.
Cùng với bạn mình là Eleanor, Suzanne lập kế hoạch “tình cờ gặp” ông Bertram và khéo léo đưa ông vào cửa hàng lông thú, hy vọng ông sẽ chọn đúng món quà mong ước. Tuy nhiên, kế hoạch thất bại: trong khi Suzanne mải dẫn đường, Eleanor lại kín đáo tranh thủ nói chuyện riêng với Bertram. Nàng gợi ý một cách khéo léo rằng Suzanne đã có tất cả, chỉ cần một chiếc quạt, trong khi bản thân mình từng bị hụt mất một món quà lông chồn bạc và vẫn mang nỗi buồn ấy.
Kết quả là Suzanne chỉ nhận được một chiếc quạt – đúng như Eleanor dự đoán – còn Eleanor lại được tặng chính món quà xa xỉ mà Suzanne hằng khao khát. Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh “một đám mây xuất hiện trong tình bạn của hai cô gái; nhưng với Eleanor, đám mây ấy có viền lông chồn bạc.”
Saki không trực tiếp chỉ trích hay lên án nhân vật; thay vào đó, ông để cho chính lời thoại và hành động của họ tự bộc lộ sự nhỏ nhen và ích kỷ. Suzanne bàn bạc với Eleanor về việc làm sao “không phí phạm cơ hội” để được quà giá trị, nhưng lại cố gắng che giấu sự tham lam của mình dưới vỏ bọc “không muốn lãng phí.” Eleanor thì điềm tĩnh, thông minh, âm thầm tính toán, và cuối cùng lại “cướp” mất phần thưởng của bạn.
Câu kết “the cloud has a silver-fox lining” (đám mây có viền lông chồn bạc) là một biến thể mỉa mai của thành ngữ “every cloud has a silver lining” (mọi điều xấu đều có mặt tốt). Ở đây, chính sự rạn nứt trong tình bạn lại trở thành cơ hội để Eleanor sở hữu bộ lông thú – một cú chốt hạ đầy chất châm biếm.
Saki thường dùng mô-típ “cái kết bất ngờ” (twist ending). Độc giả tưởng rằng câu chuyện là hành trình Suzanne tìm cách có được lông thú, nhưng cuối cùng lại là Eleanor giành chiến thắng. Điều này không chỉ tạo sự bất ngờ mà còn làm nổi bật sự mỉa mai: kẻ lên kế hoạch kỹ lưỡng lại thất bại, còn kẻ “đi theo” lại thành công.
Ngôn ngữ giàu hình ảnh châm biếm
Ví dụ, khi Suzanne cố gắng dẫn đường cho ông họ giàu có, tác giả ví cô như “một con quạ mẹ khuyến khích lũ con trong lần tập bay đầu tiên.” Hình ảnh dí dỏm này vừa gây cười, vừa làm giảm giá trị của hành động, biến nỗ lực của Suzanne thành trò ngớ ngẩn.
Suzanne khao khát bộ lông thú không chỉ vì sự sang trọng, mà vì nỗi ám ảnh phải “bằng hoặc hơn” những người xung quanh. Ở Davos, nơi người Nga khoác những bộ lông thượng hạng, cô sợ mình sẽ trở nên nhỏ bé, thua kém. Lòng tham ấy không phải chỉ để thỏa mãn bản thân, mà là để so bì, khoe khoang, và chính điều đó đã dẫn đến sự thất bại của cô.
Truyện cho thấy một loại tình bạn đặc trưng trong xã hội thượng lưu: vừa thân mật, vừa cạnh tranh, vừa chan chứa tình cảm, lại vừa ngấm ngầm đố kỵ. Suzanne và Eleanor nói chuyện, chia sẻ bí mật, lên kế hoạch cùng nhau, nhưng ngay sau đó Eleanor lại dùng chính cơ hội ấy để giành phần lợi về mình. Đây là sự châm biếm thâm thúy về mối quan hệ xã hội “bạn mà không thật là bạn.”
Qua câu chuyện quà tặng sinh nhật, Saki mỉa mai một tầng lớp sống trong nhung lụa nhưng thiếu vắng chiều sâu tinh thần. Các nhân vật bị ám ảnh bởi giá trị vật chất, biểu tượng địa vị, chứ không hề quan tâm đến ý nghĩa hay tình cảm thực sự của món quà.
Trong văn hóa châu Âu thời Edwardian, lông thú không chỉ là món đồ xa xỉ, mà còn tượng trưng cho địa vị xã hội và quyền lực phái nữ trong các buổi dạ hội. Đối với Suzanne, “bộ lông” là giấc mơ, là công cụ khẳng định vị thế giữa bạn bè và “kẻ thù.” Nhưng cuối cùng, chính vì ám ảnh với biểu tượng này, cô lại rơi vào trò chơi so đo và bị chính bạn thân đánh bại.
Ngược lại, Eleanor dùng “bộ lông” như một chiến lược – một cách để vừa lấy lòng ông họ giàu có, vừa nâng tầm bản thân. Bộ lông thú không chỉ là một món đồ, mà còn là chiến lợi phẩm trong cuộc đấu ngầm giữa hai người bạn.
Truyện Bộ lông thể hiện rõ đặc trưng của Saki: Phê phán nhẹ nhàng nhưng sâu cay: Thay vì lên án dữ dội, Saki để cho sự châm biếm tự bật ra từ tình huống và hành động.
Tiếng cười chua chát: Người đọc bật cười trước sự ngớ ngẩn của Suzanne và sự khôn khéo của Eleanor, nhưng sau đó lại nhận ra sự thật phũ phàng về lòng ích kỷ và giả dối trong các mối quan hệ xã hội.
Tính phổ quát: Dù ra đời trong bối cảnh nước Anh đầu thế kỷ XX, truyện vẫn phản ánh những vấn đề muôn thuở: tham vọng, ganh ghét, sự lợi dụng trong tình bạn, và sự thống trị của vật chất trong đời sống con người.
Bộ lông là một minh chứng điển hình cho tài năng của Saki trong việc biến một tình huống đời thường thành câu chuyện trào phúng sắc sảo. Qua hình ảnh bộ lông chồn bạc, tác giả không chỉ vẽ nên chân dung những cô gái thượng lưu hời hợt và tham vọng, mà còn phơi bày sự mong manh, giả tạo của những mối quan hệ được gọi là “tình bạn.”
Kết thúc với hình ảnh “đám mây có viền lông chồn bạc,” Saki vừa tạo nên một cú đùa ngôn ngữ, vừa khép lại tác phẩm bằng nụ cười mỉa mai đặc trưng của ông: trong thế giới của lòng tham và ganh tỵ, ngay cả một đám mây rạn nứt tình bạn cũng có thể được viền bằng sự xa hoa của vật chất.
* * *
“Trông cậu có vẻ lo lắng đấy,” Eleanor nói.
“Tớ đang lo thật,” Suzanne thú nhận; “không hẳn là lo, mà đúng hơn là băn khoăn. Cậu biết đấy, tuần sau là sinh nhật tớ rồi –”
“Người may mắn quá,” Eleanor ngắt lời; “sinh nhật tớ tận cuối tháng Ba cơ.”
“Thế này nhé, ông Bertram Kneyght già nua hiện đang ở Anh, từ bên Argentina sang. Ông ấy là họ hàng xa bên mẹ tớ, giàu đến mức khủng khiếp, nên gia đình tớ chẳng bao giờ để mối quan hệ này rơi vào quên lãng. Dù có khi cả mấy năm chẳng gặp, chẳng nghe tin, thì khi ông ấy xuất hiện, vẫn luôn là ‘Cậu Bertram’. Không thể nói là ông ấy từng giúp ích gì nhiều cho chúng tớ, nhưng hôm qua, khi nhắc đến sinh nhật tớ, ông ấy bảo hãy cho ông biết tớ muốn quà gì.”
“Giờ thì tớ hiểu vì sao cậu lo lắng,” Eleanor nhận xét.
“Thường thì khi gặp tình huống như thế,” Suzanne nói, “mọi ý nghĩ đều biến mất; chẳng còn mong muốn gì trong đầu cả. Nhưng lại đúng lúc này, tớ đang rất thích một bức tượng sứ Dresden mà tớ thấy đâu đó ở Kensington; giá khoảng ba mươi sáu shilling, hoàn toàn ngoài khả năng của tớ. Tớ suýt nữa đã miêu tả cho ông ấy và đưa địa chỉ cửa hàng. Rồi bỗng tớ nhận ra, ba mươi sáu shilling thì quá ít ỏi, chẳng xứng với một người giàu đến thế bỏ ra cho quà sinh nhật. Ông ấy có thể cho ba mươi sáu bảng dễ dàng như cậu với tớ mua một bó hoa violet. Tớ không muốn tham lam, nhưng cũng không muốn phí phạm cơ hội.”
“Vấn đề là,” Eleanor nói, “ông ấy quan niệm thế nào về chuyện tặng quà? Một số người giàu có nhất lại có cái nhìn hạn hẹp kỳ lạ trong chuyện ấy. Khi người ta dần dần giàu lên, nhu cầu và mức sống tăng theo, còn bản năng tặng quà thì vẫn giữ nguyên kiểu nghèo khó ngày trước. Họ chỉ nghĩ đến những thứ trông hào nhoáng, giá vừa phải, bán sẵn ở cửa hàng. Đó là lý do ngay cả cửa hàng lớn cũng bày la liệt những món giá khoảng bốn shilling, trông như đáng bảy shilling sáu, nhưng lại niêm yết mười shilling và dán nhãn ‘quà tặng mùa lễ’.”
“Tớ biết mà,” Suzanne nói; “đó là lý do thật nguy hiểm nếu mình chỉ nói chung chung khi gợi ý món quà. Giả sử tớ bảo: ‘Mùa đông này em sẽ đi Davos, nên món gì dùng khi đi du lịch đều được,’ thì ông ấy có thể tặng một chiếc túi da du lịch gắn vàng, nhưng cũng có thể chỉ là cuốn Hướng dẫn Thụy Sĩ của Baedeker hay Trượt tuyết không nước mắt, hoặc đại loại như thế.”
“Ông ấy có lẽ sẽ nghĩ: ‘Nó sẽ đi dự nhiều dạ vũ, chắc chắn cần một chiếc quạt.’”
“Đúng thế, mà tớ thì có cả đống quạt rồi. Cậu thấy đấy, nguy hiểm và lo lắng nằm ở chỗ ấy. Còn nếu có một thứ mà tớ thực sự, thực sự cần thì đó là lông thú. Tớ hoàn toàn chẳng có bộ nào cả. Nghe nói Davos đầy người Nga, mà họ thì chắc chắn khoác toàn loại lông chồn đen thượng hạng. Mà thử tưởng tượng, đứng giữa những người khoác đầy lông thú còn mình thì không, khiến người ta muốn phạm hầu hết Các Điều Răn ”
“Nếu cậu nhắm đến lông thú,” Eleanor nói, “thì cậu phải trực tiếp giám sát việc chọn lựa. Chẳng thể chắc cậu họ nhà cậu phân biệt được chồn bạc với sóc thường đâu.”
“Ở Goliath và Mastodon có mấy chiếc khăn choàng chồn bạc tuyệt đẹp,” Suzanne thở dài; “giá mà tớ có thể dụ Bertram bước vào tòa nhà đó, rồi dẫn ông ấy dạo qua quầy lông thú!”
“Ông ấy sống gần đó phải không?” Eleanor hỏi. “Cậu có biết thói quen của ông ấy chứ? Ông ấy có thường đi dạo giờ nào trong ngày không?”
“Ông ấy thường đi bộ xuống câu lạc bộ vào khoảng ba giờ, nếu trời đẹp. Lộ trình đó đưa ông ấy đi ngang qua Goliath và Mastodon.”
“Ngày mai chúng ta hãy tình cờ gặp ông ấy ở góc phố,” Eleanor nói; “bọn mình có thể đi cùng ông ấy một quãng, rồi nếu may mắn có thể khéo léo đưa ông ấy rẽ vào cửa hàng. Cậu cứ giả vờ cần mua lưới tóc hay gì đó. Khi đã vào trong, tớ sẽ hỏi: ‘Nhân tiện, anh sẽ tặng gì cho sinh nhật?’ Thế là mọi thứ sẽ đâu vào đấy – ông họ giàu có, quầy lông thú, và đề tài quà sinh nhật.”
“Ý kiến thật tuyệt,” Suzanne reo lên; “cậu đúng là bạn vàng. Ngày mai đến nhà tớ lúc hai giờ bốn mươi, nhớ đừng trễ nhé, chúng ta phải phục kích đúng giờ từng phút.
Vài phút trước ba giờ chiều hôm sau, hai “thợ săn lông thú” thận trọng tiến về phía góc phố đã chọn. Ở đằng xa hiện lên tòa nhà đồ sộ của cửa hiệu danh tiếng Goliath và Mastodon. Chiều hôm đó trời nắng rực rỡ, đúng kiểu thời tiết dễ khiến một quý ông có tuổi muốn ra ngoài đi dạo thong thả.
“Cậu này, tớ mong cậu giúp tớ một việc tối nay,” Eleanor nói với bạn đồng hành; “sau bữa tối cậu cứ viện cớ gì đó ghé qua, rồi ở lại làm tay thứ tư chơi bài bridge với Adela và mấy bà dì. Nếu không thì tớ sẽ phải ngồi chơi, mà đúng lúc đó Harry Scarisbrooke lại ghé qua lúc chín giờ mười lăm, tớ thì đặc biệt muốn rảnh để nói chuyện riêng với anh ấy trong khi mọi người bận đánh bài.”
“Xin lỗi nhé, cậu yêu quý, chuyện đó thì không thể rồi,” Suzanne đáp; “chơi bridge ăn ba xu mỗi trăm ván, lại với mấy bà dì chơi chậm rì, thật là buồn chết đi được. Tớ gần như ngủ gật mất thôi.”
“Nhưng tớ rất cần có dịp nói chuyện với Harry mà,” Eleanor nài nỉ, ánh mắt ánh lên vẻ tức giận.
“Xin lỗi, có thể giúp việc gì tớ cũng sẵn lòng, trừ chuyện đó,” Suzanne vui vẻ đáp; trong mắt cô, sự hy sinh vì bạn bè thật cao đẹp – miễn là không phải chính cô hy sinh.
Eleanor không nói gì thêm, nhưng khóe miệng khẽ thay đổi. “Kia rồi, người của chúng ta kìa!” Suzanne bỗng reo lên; “nhanh lên!”
Ông Bertram Kneyght chào đón cô em họ và bạn của cô bằng sự niềm nở chân thành, và vui vẻ chấp nhận lời mời của họ cùng vào khám phá gian thương xá đông đúc ngay bên cạnh. Cửa kính lớn mở ra, và cả ba lao vào dòng người mua sắm, chen chúc và dạo chơi.
“Lúc nào cũng đông thế này à?” Bertram hỏi Eleanor.
“Cũng gần như vậy, mà dạo này đang có đợt giảm giá mùa thu nữa,” cô đáp. Suzanne, vì quá sốt ruột muốn dẫn người họ hàng tới “thiên đường” quầy lông thú, thường đi trước mấy bước, thỉnh thoảng mới quay lại nếu họ dừng ở quầy hàng nào hấp dẫn. Cô ta ân cần như một con quạ mẹ khuyến khích lũ con trong lần tập bay đầu tiên.
“Tuần tới, thứ Tư, là sinh nhật Suzanne,” Eleanor tâm sự với Bertram khi Suzanne đã bỏ họ lại khá xa; “còn sinh nhật tớ thì đúng ngày trước đó, nên cả hai đều đang tìm quà cho nhau.”
“À,” Bertram nói. “Có lẽ cô có thể khuyên tôi về điểm này. Tôi muốn tặng Suzanne một món quà, mà hoàn toàn không biết cô ấy muốn gì.”
“Cô ấy đúng là một bài toán khó,” Eleanor đáp. “Cô ấy hình như có hết mọi thứ người ta có thể nghĩ tới rồi, may mắn thay. Quạt thì lúc nào cũng hữu ích; mùa đông này cô ấy sẽ đi dự nhiều dạ vũ ở Davos. Vâng, tôi nghĩ một chiếc quạt sẽ làm cô ấy vui hơn bất cứ thứ gì khác. Sau sinh nhật, hai đứa bọn tôi thường kiểm lại quà của nhau, và tớ lúc nào cũng thấy tủi thân. Cô ấy toàn nhận được những món tuyệt đẹp, còn tớ thì chẳng có thứ gì đáng khoe. Cậu thấy đấy, họ hàng và bạn bè tặng quà cho tớ đều không khá giả, nên tớ chỉ mong họ nhớ đến ngày ấy bằng một món nhỏ. Hai năm trước, một ông bác họ bên ngoại, lúc vừa được hưởng một khoản thừa kế nhỏ, đã hứa tặng tớ một chiếc khăn choàng chồn bạc. Tớ không thể tả hết nỗi háo hức lúc đó, tớ đã tưởng tượng cảnh khoe khoang nó với bạn bè và cả những kẻ ghen ghét. Thế rồi đúng lúc đó, vợ ông qua đời, và dĩ nhiên, trong hoàn cảnh ấy ông không thể nghĩ tới quà sinh nhật. Từ đó ông sống ở nước ngoài, và tớ chẳng bao giờ được nhận chiếc khăn lông. Đến tận bây giờ, mỗi lần nhìn thấy lông chồn bạc trong tủ kính hoặc trên cổ ai đó, tớ vẫn thấy như muốn bật khóc. Tớ nghĩ nếu ngày trước không có hy vọng được tặng thì chắc chẳng đến nỗi thế. Nhìn kìa, kia là quầy bán quạt, bên trái cậu; cậu có thể dễ dàng lẩn vào đám đông. Hãy chọn cho cô ấy chiếc đẹp nhất có thể – cô ấy thật sự là một cô gái đáng yêu.”
“Ô, tớ cứ tưởng lạc mất cậu rồi,” Suzanne nói, chen qua đám đông mua sắm đang chắn đường. “Bertram đâu rồi?”
“Tớ mất dấu ông ấy từ lâu. Cứ tưởng ông ấy đi trước với cậu,” Eleanor đáp. “Trong đám đông thế này chắc chẳng bao giờ tìm lại được đâu.”
Và đúng như lời tiên đoán đó. Tất cả công sức và tính toán của chúng ta đều đổ sông đổ biển rồi,” Suzanne bực bội nói, khi cả hai đã chen lấn vô ích qua nửa tá gian hàng.
“Không hiểu sao cậu không túm ngay lấy tay ông ấy,” Eleanor nói; “tớ thì sẽ làm thế nếu quen ông ấy lâu hơn, nhưng mới chỉ vừa được giới thiệu thôi. Giờ gần bốn giờ rồi, tốt nhất là đi uống trà thôi.”
Vài ngày sau, Suzanne gọi điện cho Eleanor. “Cảm ơn cậu rất nhiều vì cái khung ảnh. Đúng thứ tớ đang muốn. Cậu thật tốt bụng. À này, cậu có biết cái ông Kneyght ấy tặng tớ cái gì không? Chính xác như cậu nói đấy – một cái quạt đáng ghét. Gì cơ? Ừ thì, cũng là một cái quạt khá ổn theo cách của nó, nhưng mà vẫn…”
“Cậu phải đến xem cái ông ấy tặng tớ,” giọng Eleanor vang lên trong ống nghe.
“Cậu à! Sao ông ấy lại phải tặng cậu cái gì chứ?”
“Cậu họ của cậu xem ra là một trong số ít người giàu có hiếm hoi mà lại thích thú khi tặng quà tốt,” Eleanor đáp.
“Tớ đã thắc mắc sao ông ta lại nhiệt tình muốn biết chỗ ở của cô ta đến thế,” Suzanne lẩm bẩm với chính mình khi gác máy.
Một đám mây đã xuất hiện giữa tình bạn của hai cô gái trẻ; và với Eleanor, đám mây ấy lại có một viền lông chồn bạc.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch và giới thiệu
Tháng 10 / 2025
Nguồn: https://americanliterature.com/author/hh-munro-saki/short-story/fur/
H.H. Munro – Saki
( 1870 – 1916 )
Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro, sinh tại Miến Điện ( nay là nước Myanmar ) khi nước này còn là thuộc địa của Anh. Mẹ mất sớm, Ông được gởi sang Anh sống với hai bà cô. Học xong trung học, Ông trở về Miến Điện làm việc trong ngành quân cảnh. Do bệnh tật, chỉ hơn một năm sau, Ông lại trở về Anh và bắt đầu sự nghiệp làm báo, viết văn. Những tác phẩm đầu tiên ra đời là những bài châm biếm chính trị khi Ông viết cho tờ The Westminster Gazette. Sau khi xuất bản hai tác phẩm The Rise of the Russian Empire và The Westminster Alice, ông chuyển sang viết truyện ngắn, ban đầu đăng trên các báo The Westminster Gazette, The Morning Post, và The Bystander
Tác phẩm Ông để lại gồm 138 truyện ngắn, 5 vở kịch, 2 tiểu thuyết, và hàng chục kịch bản, tác phẩm châm biếm chính trị và tiểu luận. Trong thể loại truyện ngắn, tên tuổi Saki thường được thừa nhận như là một trong những tác gia nổi bật. Ông viết nhiều đề tài khác nhau, với một bút pháp trau chuốt, ngôn từ chọn lọc, có chút dí dỏm. Thủ thuật quen dùng của Ông là cách kết thúc truyện bằng một câu ngắn gọn, đưa ra một tình tiết mới lạ, bất ngờ, khiến người đọc luôn ngạc nhiên thú vị.
Ông bắt đầu hoạt động báo chí và phóng sự, rồi dùng bút danh Saki, xuất hiện lần đầu với tác phẩm châm biếm “Alice in Westminster” năm 1900 .Trở nên nổi tiếng với những truyện ngắn châm biếm xã hội Edwardian, đầy trào phúng, bất ngờ và đôi khi mang màu sắc kỳ quái — được so sánh với O. Henry và Dorothy Parker . Các tác phẩm nổi bật gồm: The Chronicles of Clovis (1911), Beasts and Super Beasts (1914), Sredni Vashtar, The Open Window, và Tobermory .
Ông cũng viết tiểu thuyết như The Unbearable Bassington (1912) và When William Came (1913) cùng kịch bản và ký sự lịch sử. Văn của Saki đặc trưng bởi sự sắc sảo như gươm, đầy châm biếm và tinh tế; chịu ảnh hưởng từ Oscar Wilde, Lewis Carroll và Rudyard Kipling .
Dù đã 43 tuổi khi Thế chiến I bùng nổ, ông tình nguyện gia nhập quân đội (22nd Battalion, Royal Fusiliers), từ binh nhì lên hạ sĩ! . Ngày 14/11/1916, trong trận Somme gần Beaumont-Hamel (Pháp), ông bị trúng đạn của lính bắn tỉa Đức và thiệt mạng. Theo nhiều nguồn, câu nói cuối cùng của ông là: “Put that damned cigarette out!” . ( Hãy tắt đi điếu thuốc chết tiệt đó”. )
Ông không có mộ cụ thể và được tưởng niệm tại Thiepval Memorial .Được đánh giá là bậc thầy truyện ngắn, Saki đã để lại di sản độc đáo và mang tính ảnh hưởng lâu dài trong văn học Anh . Ông là nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả sau này như A. A. Milne, Noël Coward, và P. G. Wodehouse .
Hector Hugh Munro , thường được biết đến với bút danh Saki, là một trong những bậc thầy của truyện ngắn châm biếm trong văn học Anh giai đoạn đầu thế kỷ XX. Ông nổi tiếng với những câu chuyện ngắn gọn, sắc bén, kết thúc bất ngờ, thường nhằm phơi bày sự giả tạo, ích kỷ và những mâu thuẫn tiềm ẩn trong đời sống thượng lưu và trung lưu thời Edwardian.