ĐIỀU ANH MUỐN
“Điều Anh Muốn” kể về một người đàn ông giàu có tên là Tom Crowley (giống như một vị “caliph” hiện đại), người đã quá chán nản với những thứ mà tiền bạc có thể mua được. Một đêm, ông quyết định ra phố, giả làm người bình thường để tìm ai đó mà mình có thể giúp đỡ. Ông gặp James Turner, một chàng trai nghèo làm nghề lau chùi mũ, đam mê đọc sách biển khơi của Clark Russell. Tom đề nghị tài trợ cho James một cuộc sống mới: học hành, du lịch, và làm ăn. Nhưng James, quá quen với sự cảnh giác ở thành phố lớn, đã nghĩ Tom chỉ là một kẻ lừa đảo nên mắng mỏ ông. Hai người xảy ra xô xát và bị cảnh sát bắt giam.
Khi ở trong tù, James nhận ra rằng, đối với anh, được thảnh thơi gác đôi chân đau rát lên song sắt lạnh và đọc tiểu thuyết yêu thích mới là niềm hạnh phúc lớn nhất. Khi Tom Crowley thật sự muốn bảo lãnh cho anh ra ngoài, James từ chối, vì anh đã tìm thấy cái mình cần: một khoảnh khắc bình yên đơn giản, không cần đến 40 triệu đô la.
Ý nghĩa của truyện:
Truyện ngắn này cho thấy rằng hạnh phúc không phụ thuộc vào tiền bạc hay sự giàu sang, mà nằm ở việc biết mình thật sự muốn gì và hài lòng với điều đó.
Tom Crowley có tất cả tiền bạc trên đời, nhưng lại cảm thấy trống rỗng vì không còn ham muốn điều gì nữa. Ông tưởng rằng giúp người khác bằng tiền bạc sẽ đem lại ý nghĩa cho cuộc sống mình. Trong khi đó, James Turner – tuy nghèo khổ, làm việc vất vả, nhưng anh lại biết rõ niềm vui giản dị của mình: chỉ cần được đọc tiểu thuyết yêu thích và gác đôi chân mệt mỏi lên song sắt mát lạnh.
Với James, một khoảnh khắc bình yên như vậy còn quý hơn cả 40 triệu đô la.
O. Henry đã dùng truyện này để khẳng định rằng: Giá trị của cuộc sống không nằm ở chỗ bạn có bao nhiêu tiền, mà ở việc bạn có thực sự biết mình muốn gì và biết trân trọng nó hay không.
Ý nghĩa và thông điệp truyện “Điều Anh Muốn” (What You Want của O. Henry):
Thông điệp ngắn gọn:
- Hạnh phúc không đến từ tiền bạc, mà từ việc biết mình thật sự muốn gì.
• Giàu có vật chất không có nghĩa là giàu có tâm hồn. - Người biết bằng lòng với những niềm vui giản dị là người thực sự giàu có.
- oo0
Đêm đã buông xuống thành phố rộng lớn và xinh đẹp được mệnh danh là Bagdad trên đường tàu điện ngầm. Và cùng với đêm, thứ ánh hào quang kỳ diệu chẳng riêng gì Ả Rập đã trùm xuống. Dưới những chiếc mặt nạ khác, những con phố, những khu chợ và những ngôi nhà tường cao của thành phố lãng mạn phương Tây ấy đầy ắp những con người mà người bạn già thú vị của chúng ta, cố nhân H. A. Rashid, hẳn sẽ rất thích thú. Họ mặc quần áo gần như đã được cập nhật theo phong cách hiện đại hơn mười một thế kỷ so với thời H. A. Rashid, nhưng bản chất thì vẫn chẳng khác bao nhiêu. Chỉ cần có con mắt của niềm tin, bạn có thể nhìn thấy Gã Lưng Gù Nhỏ, Thủy Thủ Sinbad, Thợ May Fitbad, Người Ba Tư Đẹp Đẽ, những Anh Chàng Một Mắt Calender, Ali Baba và Bốn Mươi Tên Cướp ở mỗi góc phố; rồi cả Gã Thợ Cạo và Sáu Người Anh Em của hắn nữa – cả đám cũ kỹ đó đều hiện diện dễ dàng.
Nhưng ta hãy quay về với món sườn cừu của mình.
Ông Tom Crowley giàu nứt đố đổ vách – một vị caliph thời hiện đại. Ông ta sở hữu 42 triệu đô-la bằng cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu có viền vàng ròng. Thời nay, muốn được gọi là caliph, bạn phải có tiền. Cái kiểu làm caliph như ông Rashid ngày xưa không còn an toàn nữa. Nếu bây giờ bạn mò vào một khu chợ, nhà tắm Thổ Nhĩ Kỳ hay ngõ hẻm nào đó để thẩm vấn chuyện riêng tư của người ta, bạn sẽ bị lôi ngay ra tòa án.
Ông Tom đã quá chán ngán các câu lạc bộ, nhà hát, những bữa tiệc, bạn bè, âm nhạc, tiền bạc – tất cả. Đó chính là điều tạo nên một caliph — bạn phải khinh ghét mọi thứ mà tiền có thể mua được, rồi đi tìm một điều gì đó mà tiền không thể mua.
“Ta sẽ tự mình đi dạo một vòng quanh thành phố,” ông Tom nghĩ. “Biết đâu lại tìm được điều gì mới mẻ. Hình như ta đã từng đọc về một ông vua hay gã khổng lồ xứ Cardiff nào đó, ngày xưa từng cải trang với bộ râu giả rồi đi lang thang kết bạn với người lạ. Ý tưởng đó nghe cũng hay đấy. Ta chán ngấy cái đám người quen rồi. Ông vua kia thường bắt gặp ai gặp khó khăn thì ném cho ít vàng — hình như gọi là sequins — rồi giúp họ cưới vợ hoặc kiếm cho họ một chân trong chính phủ. Tiền của ta bây giờ cũng tốt chẳng kém ông ta, dù mấy tạp chí hàng tháng cứ hỏi ta lấy đâu ra. Phải rồi, tối nay ta cũng thử làm ‘Cardiff’ xem sao.”
Ăn mặc giản dị, ông Tom Crowley rời khỏi dinh thự Madison Avenue, đi về phía tây rồi rẽ xuống phía nam. Khi ông bước lên vỉa hè, Số Phận — kẻ cầm những sợi chỉ nối liền các số phận trong thành phố mê hoặc — đã giật một sợi, và một thanh niên cách đó hai mươi dãy nhà liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường, khoác áo khoác lên và bước ra.
James Turner làm việc trong một cửa hiệu làm sạch mũ nhỏ trên Đại lộ Sixth, nơi mỗi khi đẩy cửa vào là còi báo động vang lên, và nơi họ “chà sạch mũ trong khi bạn chờ” — tức là hai ngày. James suốt ngày đứng bên chiếc máy điện quay mũ nhanh hơn bất cứ nhãn hiệu sâm panh nào. Không muốn bạn phải tò mò lâu, tôi sẽ mô tả qua về anh: cân nặng 118 pound; da, tóc và trí tuệ đều nhạt; cao 5 feet 6 inches; khoảng 23 tuổi; mặc bộ đồ xanh-xám 10 đô-la; trong túi chỉ có hai chiếc chìa khóa và 63 cent tiền lẻ.
Nhưng đừng lầm tưởng rằng với ngoại hình đó James là kẻ thất bại hay lạc lối.
James suốt ngày đứng làm việc, đôi chân đau nhức, tấy rát vì đứng lâu, nhưng anh cần kiếm 12 đô-la mỗi tuần để nuôi sống bản thân – dù chân có chịu nổi hay không.
James có quan niệm riêng về hạnh phúc, cũng như bạn và tôi. Với bạn, có thể đó là du ngoạn bằng du thuyền, ném tiền vào những thú vui xa xỉ. Với tôi, đó là hút một điếu tẩu lúc hoàng hôn và ngắm nhìn con lửng, con rắn đuôi chuông và con cú lần lượt trở về tổ chung.
Còn với James Turner, hạnh phúc rất đơn giản: đi thẳng về nhà trọ sau ngày làm việc, ăn bữa tối với món bít tết nhỏ, khoai tây Bessemer, táo hầm (stooed apples), và cà phê chicory pha loãng. Sau đó, anh sẽ leo lên căn phòng tầng năm phía sau, tháo giày và tất, áp lòng bàn chân bỏng rát lên những thanh sắt lạnh lẽo của giường sắt, vừa đọc các tiểu thuyết phiêu lưu trên biển của Clark Russell. Cái cảm giác mát lạnh của thanh sắt lên bàn chân rát bỏng chính là niềm vui tuyệt đỉnh mỗi tối của anh.
Chiều hôm ấy, trên đường về nhà, James đi vòng ba dãy nhà để ghé vào một quầy sách cũ trên vỉa hè, mong tìm được một cuốn tiểu thuyết Clark Russell giá rẻ.
Khi James đang lom khom xem sách, ông Tom – vị caliph – chầm chậm đi ngang. Với con mắt nhà nghề từng bán xà phòng suốt hai mươi năm, ông Tom ngay lập tức nhận ra một học giả nghèo nhưng đích thực. Ông bước xuống hai bậc tam cấp và bắt chuyện, với những lời chào hỏi thăm dò.
James Turner ngước lên lạnh lùng, tay cầm cuốn Sartor Resartus ở một tay, và A Mad Marriage ở tay kia.
“Cút đi,” James nói. “Tôi không mua móc áo hay đất ở Hankipoo, New Jersey đâu. Biến nhanh lên mà chơi với gấu bông của ông đi.”
“Chàng trai trẻ,” ông Tom nói, làm ngơ trước sự thô lỗ, “ta nhận thấy cậu có chí học hành. Học vấn là một trong những điều cao quý nhất trên đời. Ta thì chẳng có nhiều học hành, nhưng ta ngưỡng mộ những ai có. Ta từ miền Tây đến, nơi chỉ biết đến sự thật. Có thể ta không hiểu nổi thơ văn trong những cuốn sách kia, nhưng ta thích thấy người khác hiểu. Ta có khoảng 40 triệu đô-la, và càng lúc càng giàu thêm. Ta làm ra nó từ xà phòng Aunt Patty’s Silver Soap, rồi kiếm thêm nhờ đầu cơ ngũ cốc. Bây giờ, ta muốn chu cấp cho cậu học hành ở trường tốt nhất, rồi đưa cậu đi du lịch châu Âu, sau đó giúp cậu mở kinh doanh. Không nhất thiết phải bán xà phòng nếu cậu không thích. Nhìn ăn mặc của cậu, ta biết cậu nghèo, chắc chắn không thể từ chối lời đề nghị này. Vậy khi nào cậu muốn bắt đầu?”
James Turner ném ánh mắt lạnh lùng đặc trưng của thành phố lớn — ánh mắt vừa cảnh giác, thách thức, tò mò nhưng cũng ngầm khao khát một chút tình bạn — về phía ông già lạ mặt. “Này ông bạn,” James Turner nói, “ông đang bán gì thế — dây giày à? Tôi không mua gì đâu. Ông nên rút lui trước khi rắc rối xảy ra. Tôi không phải là đứa trẻ mới xuống phố đâu.”
Ông Tom vẫn kiên trì: “Con trai, như ta nói, ta có 40 triệu đô-la. Ta không muốn mang hết theo xuống mộ. Ta muốn giúp ai đó. Ta đã quyên 2 triệu cho hội truyền giáo, nhưng chỉ nhận được cái giấy biên nhận. Còn cậu, cậu là người ta muốn nâng đỡ.”
James Turner, sau một ngày mệt mỏi và chân bỏng rát, càng thêm cáu bẳn. Với lòng tự trọng của một người quét mũ, anh không thể chịu đựng nổi.
“Này, ông già lừa đảo,” anh gắt, “biến nhanh đi. Tôi không có tiền lẻ đổi tờ 40 triệu đô-la giả của ông đâu, nhưng tôi có nắm đấm trái rất ổn đấy!”
Ông Tom tức giận mắng lại, James vung cú đấm. Ông Tom túm cổ áo James đá ba cú, James vùng lên ôm vật. Hai quầy sách đổ sập, sách bay tứ tung. Một cảnh sát chạy đến, tóm cả hai dẫn về đồn.
“Đánh nhau và gây rối trật tự,” viên cảnh sát báo cáo.
“Tiền bảo lãnh 300 đô-la,” trung sĩ ra giá.
“63 xu,” James Turner bật cười chua chát.
Ông Tom lục túi, chỉ gom được bốn đô-la tiền lẻ.
“Tôi có 40 triệu đô-la, nhưng…”
“Nhốt cả hai lại,” trung sĩ ra lệnh.
Trong xà lim, James Turner nằm dài trên giường sắt, trầm ngâm. “Có thể ông ta thực sự có tiền, mà cũng có thể không. Nhưng dù có hay không thì cũng chẳng việc gì ông ta phải xen vào chuyện người khác? Khi một người biết mình muốn gì, và có thể đạt được điều đó, thì cũng giống như có bốn mươi triệu đô la rồi còn gì.”
Một ý nghĩ chợt đến khiến anh mỉm cười mãn nguyện.
Anh cởi tất ra, kéo giường lại sát cửa, duỗi người ra khoan khoái, và áp đôi chân đang rát bỏng của mình lên những song sắt lạnh buốt của cửa xà lim.
Có vật gì đó cứng và cồng kềnh dưới lớp chăn khiến vai anh đau nhức. Anh thò tay xuống, lôi ra một cuốn tiểu thuyết bìa mềm của Clark Russell có tên “Người Yêu Thủy Thủ.” James thở dài một hơi đầy thỏa mãn.
Chẳng bao lâu sau, một nhân viên nhà giam bước đến cửa xà lim và nói:
“Này nhóc, cái lão già bị bắt chung với cậu vì đánh lộn hóa ra lại là người thật đấy. Ổng vừa gọi điện cho mấy người bạn, bây giờ đang đứng ở bàn trực với cả cuộn tiền giấy vàng to bằng cái gối tàu hỏa. Ổng muốn đóng tiền bảo lãnh cho cậu, và mời cậu ra ngoài gặp ổng.”
“Nói với ổng là tôi không có ở đây,” James Turner trả lời.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
Tháng 5 / 2025
O, Henry:
( 1862 – 1910 )
O’Henry , nhà văn Mỹ, tác giả của gần 400 truyện ngắn đăng trong các nhật báo và tạp chí, sau được in trong mười tập truyện. Cuộc đời của Ông rất phong phú : làm nhiều nghề khác nhau ( dược sĩ, vẽ kỹ thuật và kiến trúc, thư ký, đầu bếp nhà hàng, nhân viên công ty địa ốc, nhân viên xưởng in… ), từng tham gia ca hát, diễn kịch, vẽ hí họa, có lúc bệnh nặng, có lúc ở tù. Có lẽ vì thế mà bối cảnh các truyện ngắn của Ông cũng rất phong phú, khắc họa xã hội nước Mỹ thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Phần lớn truyện ngắn của Ông có cốt truyện đơn giản, với nhiều tình tiết oái oăm, khắc nghiệt, có khi khôi hài để kết thúc bất ngờ. “Chiếc lá cuối cùng” ( The last leaf ) là một truyện ngắn nổi tiếng, được nhiều nước chọn đưa vào sách giáo khoa.
- Henry nổi tiếng với các truyện ngắn có kết cấu chặt chẽ, tình huống bất ngờ và kết thúc đầy ngạc nhiên. Các tác phẩm của ông thường phản ánh cuộc sống của những người dân bình thường ở thành phố New York đầu thế kỷ 20, với một giọng văn dí dỏm, nhân văn và đôi khi chua chát.
Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông có thể kể đến là The Gift of the Magi (Món quà của nhà thông thái).
Sau những năm tháng cùng quẫn, mặc dù đến lúc đã nổi danh và có tiền nhuận bút khá, O’ Henry vẫn không được hưởng hạnh phúc vào những năm cuối đời: khó khăn về tài chính vì chi tiêu quá cao, lại thêm chứng lao phổi lây từ người mẹ và tật nghiện rượu nhiễm từ người cha. Ông qua đời một cách khổ sở tại thành phố New York do bệnh lao cộng thêm chứng xơ gan khi mới 47 tuổi.
O’ Henry được xem như một trong những bậc thầy về truyện ngắn trên văn đàn thế giới, bên cạnh Tchekhov của Nga, Saki của Anh, Guy de Maupassant của Pháp.
Năm 1919, Hội Nghệ thuật và Khoa học ( Society of Arts and Sciences ) thiết lập
“ Giải thưởng Tưởng niệm O’ Henry” ( O’ Henry Memorial Awards ), hàng năm trao cho những truyện ngắn đặc sắc.
Nguồn: https://americanliterature.com/author/o-henry/short-story/what-you-want/