Phiếm về chữ KHÚC

Ngày đăng: 7/05/2025 09:20:18 Sáng/ ý kiến phản hồi (0)
KHÚC 曲 là Quanh, Quẹo, Cong, Queo, Gãy, Đoạn… Nên trong chữ Nho, chữ KHÚC là chữ Tượng Hình 象形 khó tượng hình nhất, khó Chỉ Sự 指事 nhất, nên KHÚC có rất nhiều hình thức vừa Tượng Hình vừa Chỉ Sự để hình thành diễn tiến của chữ viết như sau đây :
                        Inline image

       KHÚC 曲 là Quanh, Quẹo, Cong, Queo, Gãy, Đoạn… Nên trong chữ Nho, chữ KHÚC là chữ Tượng Hình 象形 khó tượng hình nhất, khó Chỉ Sự 指事 nhất, nên KHÚC có rất nhiều hình thức vừa Tượng Hình vừa Chỉ Sự để hình thành diễn tiến của chữ viết như sau đây :
        Inline image
       Hệ thống lại theo những chữ viết bình thường, ta có các diễn tiến tiêu biểu như sau đây :
               Giáp Cốt Văn  Chung Đỉnh Văn   Đại Triện   Tiểu Triện   Lệ Thư   Khải Thư 
                    Inline image
Ta thấy :
         Dù là Tượng Hình hay Chỉ Sự gì thì KHÚC đều là những đoạn, những đường gãy, đường cong, đường vòng, đường vèo… như nghĩa của chữ KHÚC vậy. Nên ta thường gặp các từ như : KHÚC CHIẾT, KHUẤT KHÚC, KHÚC KHUỶU QUANH CO… để diễn cái ý ngoằn ngoèo, uốn lượn… như câu thành ngữ mà ta thường nghe thấy nhất, đó là câu :
                 入家隨俗,   Nhập gia tùy tục,
                 入江隨曲.    Nhập giang tùy KHÚC.
     Có nghĩa :
          – Vào nhà ai thì phải nương theo(tùy) tập tục, thói quen của nhà đó; còn…
          – Đi vào con sông nào thì phải nương theo dòng chảy uốn lượn của con sông đó.
       Trở lại với từ KHÚC CHIẾT 曲折 : KHÚC 曲 là Cong, CHIẾT 折 là Gãy. Nên KHÚC CHIẾT nghĩa đen là “Vừa cong vừa gãy”, nghĩa bóng là “Quanh co vòng vèo”, như : Con đường lên núi KHÚC CHIẾT khó đi. Tùy theo ngữ cảnh còn có các nghĩa phát sinh, như : Câu chuyện éo le KHÚC CHIẾT, là “Câu chuyện có nhiều tình tiết gây cấn bất ngờ…” Nên KHÚC CHIẾT còn có nghĩa là “Không suông sẻ”… như thành ngữ GIAN NAN KHÚC CHIẾT 艱難曲折 chỉ sự khó khăn khổ nhọc, lắm chông gai, không chút thuận lợi nào cả. “Cuộc đời Gian Nan Khúc Chiết” là Cuộc đời ba chìm bảy nổi lắm chông gai, nhiều gian truân trắc trở.  Còn…
       KHUẤT KHÚC 屈曲 là Khuất Phục 屈服 và Ủy Khúc 委曲; là Chịu thua một cách ấm ức, nhẫn nhịn nhưng không cam tâm. KHUẤT KHÚC còn chỉ việc gì đó còn có những ẩn tình và lắc léo ở bên trong.
       Chữ KHÚC lại làm cho ta nhớ đến thành ngữ ngụ ngôn KHÚC ĐỘT TỈ TÂN 曲突
徙薪. KHÚC 曲 là Cong; ĐỘT 突 là Ống khói; TỈ 徙 là Di dời; TÂN 薪 là Than củi. Nên KHÚC ĐỘT TỈ TÂN có nghĩa : Sửa ống khói cho cong và dời củi rơm cho xa. Theo Hoắc Quang Truyện trong Hán Thư của Ban Cố đời Đông Hán 東漢·班固《漢書·霍光傳》có ghi lại câu truyện ngụ ngôn sau đây :
       Có người khách đi ngang qua nhà nọ, thấy ống khói nhà bếp dựng đứng trước lò nấu, bên cạnh lại để rất nhiều rơm khô củi khô; bèn nói với nhà chủ rằng : Ông nên dẫn ống khói cong ra sau một chút và dời rơm củi ra xa lò bếp. Nếu không, rất dễ sinh ra hỏa hoạn. Nhà chủ không nghe, cho là khách lắm lời. Ít lâu sau, quả nhiên hơi nóng bốc thẳng, rơm củi khô ở gần bốc cháy. Cả xóm xúm nhau giúp nhà chủ chửa lửa mới dập tắt được. Sau đó, nhà chủ bèn mổ bò làm tiệc thết đãi những người hàng xóm giúp chửa cháy. Ai bị phỏng (bỏng) nhiều thì được ngồi chiếu trên, người nào chỉ xây xác hoa loa thì ngồi chiếu dưới. Có người nhắc rằng : Sao ông lại quên đi người khách đã khuyên dẫn ống khói cong ra sau và dời củi rơm khô xa lò bếp. Nếu chịu nghe theo lời khuyên của ông ta thì đâu phải chịu cảnh hỏa hoạn và tốn kém cho bửa tiệc hôm nay. Nhà chủ nghe xong chợt tỉnh ngộ, vội vàng đi tìm mời người khách nọ đến ngồi ở chiếu trên của buổi tiệc.
 
        Inline image
 
        Chuyện xảy ra rồi mới thấy giá trị của lời khuyên đúng. KHÚC ĐỘT TỈ TÂN là muốn ám chỉ phải biết thấy trước và phòng bị sẵn, mới có thể phòng ngừa tai họa xảy đến. Đừng quá ỷ lại mà xem thường những gì nên cẩn trọng. Ông bà ta cũng thường nhắc nhở “Cẩn Tắc Vô Ưu 謹則無憂”(Cẩn thận thì không phải lo về sau) mà !
       KHÚC là Quanh co, nên cũng có nghĩa là “không ngay thẳng, là Lượn lẹo” như hai câu ngạn ngữ trong Tăng Quảng Hiền Văn là :
                 寧可直中取,    Ninh khả trực trung thủ,
                 不可曲中求 !    Bất khả KHÚC trung cầu !
       Có nghĩa :
             – Chẳng thà lấy được trong sự ngay thẳng, chớ…
             – Không thể cầu để có được trong lươn lẹo mánh mung !
       TRỰC 直 là Thẳng, là Đúng; còn KHÚC 曲 là Cong, là Sai. Nên ta lại có thành ngữ THỊ PHI KHÚC TRỰC 是非曲直 là “Phải trái đúng sai”; là “Chính xác và Sai lầm”, là “Có lý và Vô lý”…
       KHÚC còn có nghĩa là Thắt ngặt, nên thành ngữ CỬU KHÚC HỒI TRƯỜNG 九曲回腸  có xuất xứ từ Tư Mã Thiên đời Hán. Có nghĩa là “Ruột Thắt Chín Hồi”. Ta thường nói : Đau như thắt ruột; Ruột mà thắt đến chín lần thì đau biết chừng nào. Nên CỬU KHÚC HỒI TRƯỜNG dùng để diễn tả rất “Đau lòng xót dạ” mà ta vẫn thường nghe nói là “Ruột đau chín chiều” như câu ca dao Nam bộ mà các bà mẹ hay hát ru con :
                       Ầu ơ… Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
                                  Ngó về quê mẹ ờ… Ruột Đau Chín Chiều !…
                           Inline image
      Còn trong văn chương thì cụ Nguyễn Du gọi là “KHI VÒ CHÍN KHÚC…” như lần đầu tiên chàng Kim nghe cô Kiều đờn vậy :
                              … Khi tựa gối, khi cúi đầu,
                         KHI VÒ CHÍN KHÚC, khi chau đôi mày.
                                 Rằng: “Hay thì thật là hay,
                         Nghe ra ngậm đắng, nuốt cay thế nào !
       KHÚC có nghĩa là CONG, nên KHÚC KÍNH 曲徑 là Con đường mòn cong cong, có thể là một con đường làng hay đường núi cong cong nên thơ như trong ca dao xứ Nghệ :
                      Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
                  Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
                      Ai vô xứ Nghệ thì vô !…
       Trong văn học cổ thì có thành ngữ KHÚC KÍNH THÔNG U 曲徑通幽 là con đường nhỏ cong cong uốn quanh đưa đến nơi thanh u vắng lặng. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ bài thơ Ngũ ngôn của Thường Kiến 常建, một thi nhân đời Đường trong bài “Đề Phá Sơn Tự Hậu Thiền Viện 题破山寺后禅院”(Đề phía sau thiền viện của Phá Sơn Tự) như sau :
                  清晨入古寺,    Thanh thần nhập cổ tự,
                  初日照高林。    Sơ nhật chiếu cao lâm.
                  曲徑通幽處,    Khúc kính thông u xứ,
                  禪房花木深。    Thiền phòng hoa mộc thâm !
       Có nghĩa :
                      Sáng ngày vào viếng chùa xưa,
                   Mặt trời vừa mọc nắng thưa rừng già.
                      Quanh co đường nhỏ len qua,
                   Thiền phòng vắng lặng cỏ hoa u nhàn !
       Đường CONG luôn nên thơ hơn đường thẳng, nhất là “Đường Cong” trên thân hình của các bà các cô thì chẳng những nên thơ mà còn gợi cảm vô cùng ! Ta lại có thành ngữ KHÚC TUYẾN LINH LUNG 曲線玲瓏 chỉ những đường cong mờ ảo nhẹ nhàng nên thơ gợi cảm và vô cùng hấp dẫn của phái nữ. Thực ra Linh Lung 玲瓏  là từ tượng thanh chỉ tiếng vàng ngọc đá quý va chạm leng keng vào nhau nghe rất êm tai và dễ thương,  đi với KHÚC TUYẾN là Đường cong để chỉ những đường nét linh động chập chờn một cách gợi cảm đáng yêu như các hình ảnh minh họa sau đây :
                       Inline image
        KHÚC là đường cong, nên cũng có nghĩa là CO LẠI, như thành ngữ KHÚC QUĂNG NHI CHẨM 曲肱而枕 là “Co cánh tay lại mà gối đầu lên”, chỉ “Nằm một cách tự nhiên nhàn nhã”. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ chương Thuật Nhi của sách Luận Ngư《論語·述而》với câu :“Phạn sơ thực ẩm thủy, KHÚC QUĂNG NHI CHẨM CHI, lạc diệc tại kỳ trung hỉ 飯疏食飲水,曲肱而枕之,樂亦在其中矣”. Có nghĩa : “Ăn cơm rau uống nước lã, co cánh tay lại mà gối đầu, chẳng cũng có niềm vui trong đó hay sao !”. Chỉ cuộc sống đạm bạc vô tư lự với niềm vui thanh nhàn. Trong bài thơ “Bệnh Trung 病中”(Trong lúc bệnh hoạn) của Cao Bá Quát có 2 câu Luận như sau :
                拙妻倚枕梳蓬鬢,   Chuyết thê ỷ chẩm sơ bồng mấn,
                稚子牽衣藉曲肱。   Trĩ tử khiên y tạ KHÚC QUĂNG.
       Có nghĩa :
                 – Bà vợ vụng dại thì tựa gối mà chải lại đầu tóc rối bù, còn…
                 – Con thơ thì níu áo rồi co tay lại gối đầu mà nằm lên…
     … đang nằm bệnh mà thấy cảnh vợ con sống một cách hồn nhiên vô tư như thế cũng là một niềm an ủi vô biên cho Thánh Quát Cao Chu Thần…
                             Vợ thì tựa gối chải đầu, 
                        Con thì kéo áo gối đầu lên trên…
                Inline image
      Ngoài nghĩa chỉ CONG QUEO VÒNG VÈO ra, KHÚC 曲 còn chỉ MAU CHẬM, CAO THẤP, BỔNG TRẦM… Nên KHÚC còn có nghĩa là một Bài Hát, một Đoạn Nhạc, một KHÚC CA như trong bài Thất ngôn tứ tuyệt TẶNG THIẾU NIÊN 贈少年 của nhà thơ Ôn Đình Quân 溫庭筠 đời Đường như sau đây :
                 江海相逢客恨多,    Giang hải tương phùng khách hận đa,
                 秋風葉下洞庭波。    Thu phong diệp hạ Động Đình ba.
                 酒酣夜別淮陰市,    Tửu hàm dạ biệt Hoài Âm thị,
                 月照高樓一曲歌。    Nguyệt chiếu cao lâu NHẤT KHÚC CA !
      Có nghĩa :
                     Sông biển gặp nhau hận chuyển đa,
                     Động Đình lá rụng gió thu qua.
                     Hoài Âm giả biệt khi say tiễn…
                     Trăng chiếu lầu cao MỘT KHÚC CA !
      KHÚC là bản Nhạc, nên KHÚC PHỔ 曲譜 là những ký âm về nhạc của bài hát nào đó; còn lời của bài hát thì gọi là TỪ KHÚC 詞曲. Thường một bản nhạc thì được phân biệt bằng TÁC KHÚC 作曲 là Soạn Nhạc; TUYỂN TỪ 選詞 là Viết Lời. NHẤT KHÚC CA 一曲歌 là MỘT BÀI HÁT, thì KHÚC là Mạo Từ; còn khi ta nói THỬ KHÚC 此曲 là BÀI HÁT NẦY, thì KHÚC là Danh từ có nghĩa là Bài Hát, như hai câu thơ trong bài “Tặng Hoa Khanh 贈花卿” của Thi Thánh Đỗ Phủ :
                此曲只應天上有,   THỬ KHÚC chỉ ưng thiên thượng hữu,
                人間能得幾回聞。   Nhân gian năng đắc kỷ hồi văn !
      Có nghĩa :
                        KHÚC NẦY chỉ có trên trời,
                Nhân gian nào có mấy người được nghe !
                Inline image
       Kể về các KHÚC ĐÀN trong Văn học cổ Việt Nam ta thì không có tác phẩm nào hơn được Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du cả. Ta hãy nghe lần đầu KIM KIỀU hẹn ước, Kim Trọng đã ao ước :”Rằng nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ“. Thúy Kiều cũng đã rất lịch sự và khiêm tốn trong niềm tự hào :”Thưa rằng tiện kỹ xá chi, Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng“. Và sau khi thấy “Hiên sau treo sẵn Cầm Trăng“, thì Kim Trọng “Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày“(rất ga-lăng!) và ta mới cùng Kim Trọng nghe được khúc đàn tuyệt diệu của Thúy Kiều sau khi cô đã “So dần dây Vũ dây Văn“…
                     … KHÚC đâu Hán Sở chiến trường,
                     Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
                         KHÚC đâu Tư Mã phượng cầu,
                    Nghe ra như oán như sầu phải chăng ?
                         Kê Khang nầy KHÚC Quảng lăng,
                    Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.
                         Quá quan nầy KHÚC Chiêu Quân,
                    Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
                         Trong như tiếng hạc bay qua,
                    Đục như nước suối mới sa nửa vời.
                        Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
                    Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa…
      Ta sẽ lần lượt tìm hiểu ý nghĩa của các KHÚC ĐÀN trên thông qua văn học cổ sau đây :
      * KHÚC HÁN SỞ CHIẾN TRƯỜNG : Là HÁN SỞ PHÂN TRANH KHÚC 楚漢紛爭曲. Đây là một trong mười khúc đàn tỳ bà nổi tiếng của cổ Trung Hoa, còn có tên là “Thập Diện Mai Phục 十面埋伏”. Thường dùng để độc tấu, tiếng nhạc dồn dập mạnh mẽ, âm thanh rổn rảng chấn động lòng người, tựa như khi quân của Hạng Võ Sở Bá Vương bị quân của Hán Lưu Bang vây ở Cai Hạ quyết vùng vẫy để bức phá vòng vây trong vô vọng. Bản đàn có nghê thuật phối hợp âm thanh cao độ, là một tuyệt phẩm của cổ nhạc phủ, đòi hỏi người đàn phải có kỹ thuật đàn giỏi như Thúy Kiều để thể hiện được các âm thanh :
                   Nghe ra tiếng SẮT tiếng VÀNG chen nhau !
                           Inline image
      * KHÚC TƯ MÃ PHƯỢNG CẦU : Là khúc PHƯỢNG CẦU KỲ HOÀNG 鳳求其凰 (thường được gọi gọn là khúc Phượng Cầu Hoàng) của Tư Mã Tương Như đời Hán theo tích sau đây :
       Theo sách Sử Ký 史記, Tư Mã Tương Như 司馬相如 là tài tử nổi tiếng của đời Hán, tự là Trường Khanh 長卿, người đất Thành Đô (Thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) Ở lộ Cầm Đài. Khi đến đất Lâm Cùng , nhờ có người bạn là Tri Huyện Vương Cát tiến cử, nên được nhà cự phú Trác Vương Tôn ở địa phương mời đến nhà khoản đãi. Trong bữa tiệc khách yêu cầu đàn một khúc, Tương Như biết vương tôn có cô con gái mới mười sáu tuổi rất đẹp, lại vừa mới góa chồng là Trác Văn Quân 卓文君, bèn giở cây lục ỷ cầm ra đờn hai khúc trong bài Phượng Cầu Hoàng như sau :
              鳳兮鳳兮歸故鄉,    Phượng hề phượng hề quy cố hương,
              遨遊四海求其凰…   Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng ….
              有豔淑女守蘭房,    Hữu diễm thục nữ thủ lan phòng,
              室邇人遐毒我腸。    Thất nhĩ nhân hà độc ngã trường.
              何緣交頸為鴛鴦…   Hà duyên giao cảnh vị uyên ương …
Có nghĩa :
              Về thôi phượng hỡi, phượng hề !
              CẦU HOÀNG tứ hải bốn bề ngao du.
              Có nàng thục nữ ôn nhu,
              Gần bên mà ngỡ như từ cõi xa.
              Uyên ương sao được một nhà ?   
               Inline image
      Tư Mã Tương Như nghe trong rèm ở phòng bên có tiếng thở dài nhè nhẹ, biết là Trác Văn Quân đang nghe đàn, bèn đàn tiếp khúc thứ hai là :
              鳳兮鳳兮從凰棲,    Phượng hề phượng hề tòng hoàng thê,
              得托孳尾永為妃。    Đắc thác tư vĩ vĩnh vi phi.
              交情通體心和諧,    Giao tình thông thể tâm hòa hài,
              中夜相從知者誰?    Trung dạ tương tòng tri giả thùy ?
              雙翼俱起翻高飛,    Song dực câu khởi phiên cao phi,
              無感我思使余悲。    Vô cảm ngã tư sử dư bi.
Có nghĩa :
              Theo hoàng phượng hỡi, phượng hề,
              Theo nhau mãi mãi đi về một phương.
              Giao tình lòng những vấn vương,
              Giữa đêm theo gót người thương bao ngày.
              Chắp đôi cánh phượng cao bay,
              Lòng ta buồn nhớ ai hay chăng là ?!
         Khúc ca vừa tỏ lòng ái mộ Trác Văn Quân, vừa “xúi giục” nàng “giữa đêm theo gót…” nên, nửa đêm hôm ấy, Trác Văn Quân bỏ nhà trốn theo Tư Mã Tương Như về Thành Đô sinh sống… Tiếng đàn Thúy Kiều đã thể hiện được nỗi lòng của Tư Mã Tương Như để đánh động lòng yêu mến của nàng Trác Văn Quân nhẹ dạ :
                   Nghe ra như oán như sầu phải chăng ?
      * KÊ KHANG nầy KHÚC QUẢNG LĂNG : Gọi cho đúng tên là Khúc Quảng Lăng Tán 廣陵散 của Kê Khang 稽康 đời Tấn.
       Theo ghi chép trong Tấn Thư 晉書 : Kê Khang 稽康, một trong Trúc Lâm Thất Hiền 竹林七賢, lúc đang du ngoạn ở Lạc Tây, được một cao nhân về cầm phổ tặng cho khúc Quảng Lăng Tán. Nhưng theo Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 đời Đường thì truyện có vẻ truyền kỳ hơn : Kê Khang rất giỏi về thanh nhạc. Một hôm, trọ ở Nguyệt Hoa Đình, đêm không ngủ được, ngồi gãy đàn trong đình. Tiếng đàn cầm du dương u nhã đánh động một âm hồn nghệ nhân thiên cổ hiện lên truyền thụ cho Kê Khang khúc Quảng Lăng Tán với một ước hẹn là “Không được truyền thụ khúc nhạc nầy lại cho người khác!”. Công nguyên năm 263, vì chống lại chủ trương của chúa Tây Tấn là Tư Mã Chiêu nên bị xử tử. Trước khi chết Kê Khang đã than rằng :”Viên Hiếu Nê luôn muốn học khúc đàn nầy của ta, nhưng vì lời hứa ta không thể dạy được, khúc nhạc hay này đành phải thất truyền rồi !”. Tương truyền, tiếng đàn thánh thót như nước chảy mây trôi giống như Thúy Kiều đã thể hiện :
                   Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân !
       
                     Inline image
     * Quá quan nầy KHÚC CHIÊU QUÂN : Là Chiêu Quân Xuất Tái Khúc 昭君出塞曲.
       VƯƠNG CHIÊU QUÂN 王昭君 (Năm 51-15) vốn tên là Tường 嬙, tự là Chiêu Quân 昭君. Người Nam Quận đời Tây Hán (tỉnh Hồ Bắc hiện nay), là cung nhân trong cung Hán Nguyên Đế, giỏi cả cầm kỳ thi họa, nhưng vì không biết đút lót với họa sư là Mao Diên Thọ, nên tranh vẽ của nàng không được trình lên nhà vua. Đến khi Thiền Vu đất Hồ (Người Hồ gọi vua là Thiền Vu 單于) đến cầu thân để giao hảo. Vương Chiêu Quân đã dâng sớ tình nguyện hòa thân gả cho chúa Hồ để giúp cho bá tánh ở vùng biên cương hai nước tránh khỏi cảnh binh đao loạn lạc (Đó là tích của thành ngữ Chiêu Quân Cống Hồ 昭君貢胡). Đến ngày đưa tiễn, Hán Nguyên Đế mới biết được Chiêu Quân là cung nữ tài sắc vẹn toàn thì đã muộn rồi. Trên đường ra quan ải của vùng biên tái, Vương Chiêu Quân đã gãy đàn tì bà để gởi gắm tâm sự nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ anh em, nhớ Hán đế lúc đưa tiễn… Đó chính là bản đàn “Chiêu Quân Xuất Tái 昭君出塞” sầu thương và oán hận cao ngút trời làm cho các con chim nhạn đang bay trên bầu trời Nhạn Môn Quan đều ngẩn ngơ rơi cả xuống bải cát (ta có thành ngữ Bình Sa Lạc Nhạn 平沙落雁). Cũng do tích nầy mà ra. Vương Chiêu Quân được xếp là Mỹ Nhân Lạc Nhạn 落雁, chỉ đứng sau người đẹp Tây Thi là Trầm Ngư 沉魚 mà thôi, và cũng là một trong Tứ Đại Mỹ Nhân 四大美人 của Trung Hoa cổ đại.
      Khúc đàn của Vương Chiêu Quân đã được cụ Nguyễn Du cho Thúy Kiều thể hiện lại bằng hai câu :
                        Quá quan nầy KHÚC CHIÊU QUÂN,
                     Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
                   Inline image
       Những KHÚC ĐÀN của Thúy Kiều còn được diễn tả một cách đa dạng bổng trầm  cuốn hút và làm ngây ngất người nghe như…
                       … Trong như tiếng hạc bay qua,
                      Đục như nước suối mới sa nửa vời.
                           Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
                      Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa…    
       Các câu trên đây được cụ Nguyễn Du lấy ý từ bốn câu Thực và Luận trong bài thơ “Văn Cầm 聞琴”(nghe đàn) của Tôn Thị 孫氏 đời Đường là :
              初疑颯颯涼風動,   Sơ nghi táp táp lương phong động,
              又似蕭蕭暮雨零。   Hựu tự tiêu tiêu mộ vũ linh.
              近若流泉來碧嶂,   Cận nhược lưu tuyền lai bích chướng,
              遠如玄鶴下青冥。   Viễn như huyển hạc há thanh minh.
    Có nghĩa:
                 Lúc đầu ngờ gió thổi hây hây,
                 Lại tựa mưa chiều lất phất bay.
                 Gần như suối đổ bờ rêu biếc,
                 Xa tựa hạc huyền xuống vực sâu.
                 Inline image
       Kịp đến khi Kim Kiều tái hợp, sau khi “Thêm nến giá nối hương bình, cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan“, thì Kim Trọng một lần nữa “Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa“, và Thúy Kiều thì lại “Nễ lòng người cũ vâng lời một phen“, và “Phiếm đàn dìu dặt tay tiên“, nên ta lại được nghe các KHÚC…
                           … KHÚC đâu đầm ấm dương hòa,
                           Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh ?
                               KHÚC đâu êm ái xuân tình,
                           Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên ?
                               Trong sao châu rỏ duềnh quyên,
                           Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đong !
                               Lọt tai nghe suốt năm cung,
                           Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
       * HỒ ĐIỆP hay là TRANG SINH : Hồ Điệp 蝴蝶 là Bươm bướm; Trang Sinh 莊生 là Trang Chu, Trang Tử.
        Theo Tề Vật Luận trong sách Trang Tử 莊子•齊物論 có ghi lại câu chuyện sau đây : Trang Chu hay nằm mơ thấy mình hóa ra bươm bướm, tiêu dao tự tại bay múa dạo chơi khắp nơi. Khi tỉnh lại rồi thì còn ngờ ngợ tự hỏi rằng :” Không biết là Trang Chu ta hóa ra bươm bướm, hay là bướm bướm đã hóa ra Trang Chu ta đây ?!” Có nghĩa là mộng cũng như thực mà thực cũng như mộng. Ở đây mượn để chỉ tiếng đàn của Thúy Kiều mơ mơ hồ hồ hư hư thực thực tiêu dao bay bổng như giấc bướm của Trang Chu.
                        Inline image
      * Hồn THỤC ĐẾ hay Mình ĐỖ QUYÊN : Thục Đế 蜀帝 là Vua nước Thục; còn Đỗ Quyên 杜鵑 là Chim Đỗ Quyên, ta gọi là con Cuốc hay con Quấc. Theo tích sau đây :
         Theo sách Sưu Thần Ký 搜神記  đời Tấn, thì Đỗ Vũ 杜宇 là tên một vị vua nước Thục 蜀 (tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) thời Chiến Quốc, ông có tính hoang dâm vô độ nên dưới thời ông  làm vua chính sự nước Thục không ổn định. Đỗ Vũ nhân nhà Chu suy yếu bèn tự xưng đế hiệu là Vọng Đế (望帝), vì là vua nước Thục, nên còn gọi là Thục Đế 蜀帝. Ông từng thông dâm với phu nhân của vị tướng quốc lúc bấy giờ là Biết Linh (鳖灵), sau chuyện bị lộ, nên Đỗ Vũ thẹn quá bèn nhường ngôi cho vị tướng quốc này, và vì trước đó Biết Linh cũng đã có công trị thủy, cứu nước Thục khỏi cảnh lũ lục thiên tai. Tuy nhiên sau khi nắm trong tay quyền lực thì Biết Linh ngược đãi Đỗ Vũ, cấp lương thực không đầy đủ khiến ông phải hậm hực mà bỏ nước ra đi, sau khi ông chết linh hồn hóa thành một loài chim suốt ngày chỉ kêu “quốc, quốc” (cuốc cuốc). Người ta bảo đấy là Thục Đế nhớ nước nên mới kêu như vậy, và dân gian đặt tên cho giống chim đó là chim Cuốc.
         Ví tiếng đàn oán than như nỗi lòng của Thục Đế mất nước gởi gắm tâm sự của mình cho con chim Đổ Quyên kêu ra rả suốt những đêm hè.
                     Inline image
      * CHÂU RỎ DUỀNH QUYÊN : là  tích của Giao Nhân nhỏ lệ thành châu như sau :
        Theo Thần Tiên Truyện, Giao Nhân 鮫人(người cá) trong đêm trăng sáng ngước nhìn vào bờ mà rơi hai hàng lệ, và mỗi giọt nước mắt đều là những hạt châu rơi xuống biển xanh.
        Ví tiếng đàn thánh thót như những hạt châu rơi.
      * NGỌC LAM ĐIỀN : là Lam Điền Ngọc 籃田玉, những viên ngọc được nuôi trồng ở xứ Lam Điền.
        Theo tích xưa ở hụyên Lam Điền chuyên nuôi trồng và sản xuất ngọc. Vì tránh sự tranh giành của sai nha và quan lại địa phương, thần tiên đã mách bảo cho dân nghèo là nơi nào có khói bốc hơi nhè nhẹ trong núi là nơi đó có thể trồng ngọc được.
        Ví tiếng đàn trong trẻo và ấm áp như những viên ngọc ở xứ Lam Điền vừa mới đong thành.
                    Inline image
        Thực ra những câu thơ trên đây, cụ Nguyễn Du đã lấy ý trong bài thơ Cẩm Sắt 錦瑟(Đàn Gấm) của Lý Thương Ẩn đời Đường đã tả tiếng đàn như sau :
                莊生曉夢迷蝴蝶,      Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp
                蜀帝春心托杜鵑.      Thục Đế xuân tâm thác đổ quyên.
                滄海月明珠有淚,      Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
                藍田日暖玉生煙.      Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.
Có nghĩa :
                   Trang Chu tỉnh mộng còn ngờ bướm,
                   Thục Đế lòng xuân cuốc gọi trời.
                   Trăng sáng biển xanh châu rướm lệ,
                   Lam Điền nắng ấm ngọc bay hơi.
      Còn một KHÚC khác nổi tiếng hơn trong văn học cổ, đó là KHÚC TỲ BÀ 琵琶曲, vì Tì Bà là loại đàn được du nhập từ xứ Hồ, nên còn được gọi là Hồ Cầm 胡琴 mà Thúy Kiều trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du rất giỏi về ngón đàn nầy :
                    Nghề riêng ăn đứt HỒ CẦM một chương.
     Tì Bà Khúc 琵琶曲 có xuất xứ từ bài Tì Bà Phú của Phó Huyền 傅玄 đời Tây Tấn 西晉 : Công chúa Ô Tôn của nhà Hán bị đem gả cho chúa Côn Di. Trên đường đi ra quan ải, vì sợ công chúa buồn phiền, nên những nhạc công đi theo dùng cầm, tranh, trúc, sở cùng hòa tấu với tiếng tì bà trên ngựa để làm vui lòng công chúa, nhưng tiếng đàn vẫn mang âm điệu thảm thiết bi thương.
                      Inline image
     Đọc tích trên làm cho ta nhớ tới Huyền Trân Công Chúa con của vua Trần Nhân Tông cũng bị gả cho chúa Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và châu Lý, mà nhà thơ Nguyễn Văn Cổn thời Tiền Chiến đã viết trong bài thơ “Nước Tôi” là :
                            Bùi ngùi nhớ bóng Huyền Trân,
                         Hai châu Ô Lý đổi thân nghìn vàng.
     Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, nhà vua Lê Thánh Tông cũng có nhắc tới KHÚC TÌ BÀ :
                           Tuyết lọt mấy tầng chăn phỉ thuý,
                           Sầu tuôn đòi đoạn KHÚC TÌ BÀ. 
                       Inline image
     Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, ta còn bắt gặp :
                   Vườn Tây Uyển KHÚC Trùng THANH DẠ. 
                   Gác Lâm Xuân điệu ngả Đình Hoa .
        * Khúc Trùng Thanh Dạ là THANH DẠ KHÚC 清夜曲 và KHÚC HẬU ĐÌNH HOA 後庭花曲 đều là hai khúc hát chỉ lo vui chơi mà mất nước.
         Thanh Dạ Khúc còn gọi là Thanh Dạ Du 清夜遊 là tên một khúc hát mà các cung nhân thường hát cho vua Tùy Dạng Đế trong vườn Tây Uyển. Trong Sơ Kính Tân Trang của Chiêu Lỳ Phạm Thái có câu :
                        Đoàn sĩ tử nhởn nhơ dưới nguyệt,
                        KHÚC THANH DU nhạc thét châu cung.
       Còn HẬU ĐÌNH HOA 後庭花 là tên của khúc hát mà Trần Hậu Chúa 陳後主sắp mất nước, quân giặc đã đánh tới cửa cung rồi mà Trần Hậu Chúa cùng đám cung nhân vẫn còn ăn chơi để hát cho hết khúc Hậu Đình Hoa. Nên khúc hát này bị liệt vào khúc hát mất nước, khúc hát vong quốc như nhà thơ Đỗ Mục cuối đời Đường đã cảm khái :
                   商女不知亡國恨,   Thương nữ bất tri vong quốc hận,
                   隔江猶唱後庭花.    Cách giang do xướng HẬU ĐÌNH HOA.
       Có nghĩa :
                           Kỹ nữ biết đâu hờn mất nước,
                          Cách sông còn hát “Hậu Đình Hoa” !
                         Inline image
       Còn THƯƠNG LANG KHÚC 滄浪曲 là tên một bài hát của người nước Sở, trong đó có câu: “Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh. Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc 滄浪之水清兮, 可以濯我纓. 滄浪之水濁兮, 可以濯我足”. Có nghĩa : Nước sông Thương Lang trong thì ta giặt dải mũ của ta, nước sông Thương Lang đục thì ta rửa chân của ta. Ý nói phải biết tùy nghi mà hành động, kiến cơ nhi tác. Khúc hát nầy nói lên ý chí thanh cao của tác giả dù trong dù đục vẫn luôn luôn gắng bó với dòng sông Thương Lang.
       Trong bài “Tụng Tây Hồ Phú” của Nguyễn Huy Lượng có câu :
                    Con thuyền trúc lân la trước gió,
                    KHÚC THƯƠNG LANG đưa gánh củi chàng Chu.
                  Inline image
       Ngoài ra, ta còn có KHÚC NGHÊ THƯỜNG, là Nghê Thường Vũ Y Khúc 霓裳羽衣曲, là khúc nhạc trổi lên để cho các cung nữ ăn vận như tiên nga trên trời với chiếc áo có gắn lông chim như những cánh thiên thần để múa hát, gọi là Nghê Thường Vũ Y Vũ 霓裳羽衣舞. Khúc nhạc nầy có xuất xứ như sau :
       Theo Dương Thái Chân ngoại truyện 楊太真外傳. Đường Huyền Tông 唐太宗 lên núi Tam Hương Dịch, trông thấy núi tiên Nhi Nữ Sơn, xúc động tâm tình, đêm lại mơ thấy du nguyệt điện nghe được khúc nhạc du dương trên cung trăng. Năm Thiên Bảo thứ 13 (754), kết hợp khúc nhạc trong mơ cùng với khúc nhạc Bà La Môn do Hà Tây Tiết Độ Sứ Dương Kính Thuật tấn hiến từ Ấn Độ mà soạn thành khúc Nghê Thường Vũ Y. Đường Minh Hoàng rất đắc ý với khúc nhạc nầy, cho đến năm Khai Nguyên 28, khi Dương Ngọc Hoàn tấn cung, rất giỏi ca múa, mới soạn thành Nghê Thường Vũ Y Vũ cho nàng vừa múa vừa hát khi mới vừa vào đến Hoa Thanh Cung, và cũng vì ca múa giỏi được vua yêu qúy mà được phong Qúy Phi ngay liền sau đó.
       Trong bài thơ “Tiên Nữ Nhớ Lưu Nguyễn” trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, ông vua Lê Thánh Tông đã hạ hai câu mở là :
                        Chẳng còn nhớ đến KHÚC NGHÊ THƯỜNG,
                        Một phút chiêm bao một phút thương…
      Còn trong Tứ Thời Khúc Vịnh – đoạn Mùa Thu, thì Hoàng Sĩ Khải lại gọi là KHÚC NGHÊ :
                       Gió cung thiềm mảy hơi thoảng đến,
                      Lựa KHÚC NGHÊ uyển chuyển Hằng Nga.
                      Inline image
                                 Nghê Thường Vũ Y Vũ
       Trở lại với KHÚC là Uốn cong, là Uyển chuyển, biết tùy thời mà xử sự, ta lại có thành ngữ ỦY KHÚC CẦU TOÀN 委曲求全, có xuất xứ từ chương 22 của sách Lão Tử thời Xuân Thu 春秋·老子《老子》第二十二章. ỦY KHÚC 委曲 chỉ Sự việc quanh co khó nói, là chịu thiệt thòi, chịu lép vế. CẦU TOÀN 求全 là Cầu cho được vẹn toàn, là Mong muốn cho sự việc được vuông tròn. Nên…
       ỦY KHÚC CẦU TOÀN 委曲求全 là biết xử sự linh động uyển chuyển để cho mọi việc đều được êm suôi suông sẻ một cách trọn vẹn, đâu ra đó hẵn hoi, dù cho mình có chịu thiệt thòi lép vế chút đỉnh cũng không sao !
                         Đỗ Chiêu Đức

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác