NÓI CHUYỆN VĂN CHƯƠNG VỚI ĐỖ CHIÊU ĐỨC

Ngày đăng: 31/05/2025 12:16:40 Chiều/ ý kiến phản hồi (0)

Một hôm bạn Đỗ Chiêu Đức (bạn không quân ) nói về hai câu Kiều: Biết thân đến bước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.” Đức nói Nguyễn Du dùng chữ “Chung” quá hay, vì chữ Chung gồm có bộ Kim bên trái, và chữ Trọng bên phải. Như vậy, chữ Chung có chữ Kim biểu ý và chữ Trọng biểu âm.

Vậy là ý Thúy Kiều nói, biết đến bước lạc loài, đã cho Kim Trọng bẻ gì đó, hổng biết nữa. Nhưng rất may cho Thúy Kiều không biết thân đến bước lạc loài, nên không cho Kim Trọng bẻ. Nếu bị Kim Trọng bẻ rồi thì ôi thôi! Má ơi con má hư rồi, còn đâu má gả má đòi bốn, năm trăm lạng.

“Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá, vàng ngoài bốn trăm.”

***

Lần khác nói chuyện về bản nhạc Ai có về bên bến sông Tương. Nhắn người duyên dáng tôi thương.

Tôi nói, có thể đây là chuyện tình bên bến sông Hương. Vì chuyện tình cũng có đoạn kết chia cách như chuyện tình bên dòng sông Tương bên Tàu, nên tác giả dùng chữ Ai có về bên bến sông Tương.  Đức khẳng định, đó là chuyện tình bên dòng sông Tương bên Tàu chứ không phải chuyện tình bên dòng sông Hương như tôi nghĩ.

Tôi không đồng ý với Đức, nhưng tôi không có bằng chứng rõ rệt đó là chuyện tình bên dòng sông Hương, nên không cãi lại.  Năm học đệ lục cô dạy:

Nhân đạo Tương giang thâm

Vị để tương tư bạn

Giang thâm chung hữu để

Tương tư vô biên ngạn

Quân tại Tương giang đầu

Thiếp tại Tương giang vĩ

Tương tư bất tương kiến

Đồng ẩm Tương giang thủy

TẠM DỊCH

Người bảo sông Tương sâu

Không bằng lòng nhớ nhau

Sông sâu còn có đáy

Lòng nhớ không bến bờ

Chàng ở đầu sông Tương

Thiếp ở cuối sông Tương

Nhớ nhau mà không thấy

Cùng uống nước sông Tương.

Chữ tương tư không cần dịch, đã Việt hóa rồi. Vị nào đã dịch chữ tương tư bằng chữ NHỚ, yếu quá không diễn tả hết hai chữ TƯƠNG TƯ.

(Ngọc Thúy Thiềng Đức có biết chữ Việt nào ngoài chữ Nhớ có nghĩa y như tương tư, xin chỉ dùm)

Chuyện tình bên dòng sông Tương là lời than của cả hai người đang yêu nhau. Quân là chàng. Thiếp là nàng. Cùng mang nỗi tương tư, cùng đau khổ không gặp được nhau vì sự chia cách bởi chiều dài của dòng sông. Chàng ở đầu sông, thiếp ở cuối sông. Nhưng không cho biết lý do tại sao thương nhớ nhau, nhưng không thể gặp nhau.

Nhưng trong bài ca Ai về sông Tương của Việt Nam đoạn sau nói rõ:

Ai có về bên bến sông Tương

Nhắn người duyên dáng tôi thương

Sao đành nỡ dứt tơ vương

Ôi duyên hờ từ nay bơ vơ

Dây tình tôi nắn cung tơ

Rút lòng sầu trách người mơ.

Đoạn ca trên cho thấy rõ ràng là một chuyện tình khác, chẳng dính dấp gì về chuyện tình bên dòng sông Tương.

Đoạn ca nói rõ tâm sự của một người đang đau khổ vì tình yêu tan vỡ. Nhờ ai đó nhắn gởi đến người mình yêu thương, trách móc vì sao nỡ chia lìa. Tình duyên chỉ là “duyên hờ”, để lại nỗi cô đơn, lạc lõng. Người ấy đã cố gắng níu giữ tình cảm, “nắn cung tơ”, nhưng cuối cùng chỉ còn lại nỗi buồn và trách móc.

Mới đầu tôi nghĩ, tác giả không viết Ai về sông Hương mà viết Ai về sông Tương, vì thời xa xưa ở bến sông Hương, có thú vui tao nhả. Giới trí thức, quan lại, văn nghệ sĩ thuê đò trên sông Hương để nghe ca Huế, uống trà, rượu, ngâm thơ thưởng nguyệt, chuyện trò thâu đêm.

Nhưng sau này những cô gái bán hoa tràn xuống ghe, và động từ lắc đò sông Hương không còn thanh cao nữa.

Nhưng sau tôi nghĩ lại, chắc không phải vậy, vì nữ sĩ Tương Phố cũng nhắc đến sông Tương:

Mưa gió sông Tương một bức màn. .

Nữ sĩ Tương Phố không phải tả sông Tương, chỉ mươn điển tích sông Tương để nói lên sự chia ly ở đoạn cuối tình yêu.

Nhắc đến sông Tương là đã nói lên ý nghĩa của sự chia ly. Bà Tương Phố còn tô đậm thêm sự chia cách bằng cảnh mưa gió trên sông Tương, tạo nên một bức màn che khuất, người ở hai bên bờ không còn trông thấy nhau.

Bài ca Ai về sông Tương, chắc chắn tác giả cũng mượn điển tích sông Tương để nói lên sự chia ly ở đoạn cuối của mối tình. Bài ca Ai về sông Tương khác với chuyện tình bên dòng sông Tương bên Tàu.

***

Phi đạo C119 là phi đạo 413, có 4 phi toán, mỗi phi toán có 4 người. Sau khi điểm danh, phi cơ bay hết rồi. Ba người kia vọt mất, chỉ còn mình tôi ở lại. Tại vì tôi là dân quê chánh hiệu con nai vàng ngơ ngác. Muốn đi cũng chẳng biết chỗ nào mà đi.

Còn mình tôi ở lại, sếp có chuyện gì cần, mình tôi làm hết, và tôi cũng thường làm dùm việc của những toán khác. Thật ra chỉ có việc lặt vặt chứ không có việc gì nhiều. Chỉ có vậy, mà các anh trong phi đạo khoái tôi lắm. Có anh chở tôi đi ăn bánh cuốn.

Hồi đi học ở Vĩnh Long, sang lắm là ăn hủ tiếu Đổng Hính, hay mì Thành Công. Tôi thấy có tiệm phở Hồng Mai, nghe nói món phở là món của người Bắc, tôi không biết có hợp khẩu vị không, nên tôi chưa ăn thử lần nào. Tôi không thấy tiệm bán bánh cuốn ở Vĩnh Long.

Anh dẫn tôi đi ăn bánh cuốn, kêu thêm cho tôi ly cà phê sữa. Đó là ly cà phê đầu tiên trong đời, lúc đi học tôi chưa uống cà phê. Dĩa bánh cuốn cũng là dĩa bánh cuốn đầu tiên trong đời.

Anh còn nói, nước mắm cà cuống. Tôi cũng mới nghe lần đầu. Anh nói, muốn biết con cà cuống, buổi tối đến những ánh đèn trong Tân Sơn Nhứt sẽ thấy nhiều con cà cuống.

Sau này thỉnh thoảng buổi trưa tôi không đi ăn cơm, tôi ghé ăn bánh cuốn, cũng kêu ly cà phê sữa. Cô bé đem cho tôi ly sữa pha với nước sôi, trên mặt chế tí cà phê. Lần đầu tôi tưởng cô bé đem lộn, nhưng tôi cũng uống không hỏi. Lần thứ nhì cũng vậy. Tôi cũng uống, không hỏi. Lần thứ ba tôi hỏi. Cô trả lời, nhỏ uống cà phê làm chi, uống như vậy ngon hơn. Cô thích uống vậy.

Tôi không cãi lại cô, nhưng nghĩ, cô thích, cho tôi uống món cô thích. Vậy thì tôi cũng thích cô luôn.

Lần thứ tư tôi ngồi chỗ vắng chút. Cô vừa đặt ly sữa xuống bàn. Tôi nắm tay cô bé.

Cô để yên cho tôi nắm tay cô. Năm đó tuổi cô bé khoảng bằng cô gái trong bài thơ Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, hay lớn hơn chừng nửa tuổi.

Tôi cũng chỉ 17. Khi đi lính, tôi phải thêm một tuổi rưỡi cho đủ 18 để đi lính. Bác sĩ khám răng chắc biết tôi chưa đủ 18, nhưng một vị Đại Tá Không Quân, đem tôi vô Không Quân, nên bác sĩ thuận theo lời của Đại Tá, đồng ý cho tôi được gia nhập Không Quân.

***

Anh khác rủ tôi đến một quán cà phê cũng trong Tân Sơn Nhứt nhưng khá xa phi đạo 413. Khi anh rủ tôi uống cà phê quán này lần thứ ba tôi mới biết, anh trồng cây si cô hàng cà phê. Anh này điển trai to lớn, đúng chuẩn Không Quân. Còn tôi có mặt trong Không Quân, chắc Không Quân buồn lắm vì tôi chẳng đủ tiêu chuẩn làm lính Không Quân.

Nhưng tôi lấy làm tiếc cho anh này. Nếu mà tôi đẹp trai như anh, tôi đâu cần trồng cây si ai.

Thêm vài lần đi uống cà phê với anh phi đạo, tôi thấy có thêm anh thiếu úy pilot cũng trồng cây si cô hàng cà phê. Anh phi đạo chỉ ngồi im lặng, thỉnh thoảng ngước nhìn cô hàng cà phê. Còn anh pilot nói nhiều. Tôi nghĩ, chinh phục gái đâu cần nói nhiều, nói hay. Người nói hay là người chẳng nói gì hết. Chẳng nói, không có nghĩa là ngồi im như anh chàng phi đạo.

Tôi nghĩ, hai anh chàng này, chẳng anh nào chinh phục nổi cô hàng cà phê. Nhưng có thể anh pilot chinh phục đươc thì được, không được thì thôi. Còn anh phi đạo thì tương tư nặng cô hàng cà phê. Anh khổ sở vì cô hàng cà phê.

Nhờ thấy anh phi đạo khổ sở mà tôi nghiệm ra, đừng bao giờ chạy theo người con gái mình thích. Đừng bao giờ thích người con gái mình thích.

Và cũng nhờ làm ở phi đao, tôi thấy trên bảng phi vụ, luôn luôn có chiếc spare. Vậy thì để tránh bị bịnh tương tư như anh phi đạo, luôn luôn nhớ chữ “spare.”

(CÒN TIẾP)

HOÀNG HƯNG

 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác