Dịch thơ chữ Hán của Tùng Thiện Vương

Ngày đăng: 9/04/2018 05:19:07 Chiều/ ý kiến phản hồi (1)

Tùng Thiện vương là con trai thứ 10 của Minh Mạng, sinh năm 1819 tại cấm thành Huế. Mẹ ông là Thục tần Nguyễn Thị Bửu, người Gia Định , rất giỏi chữ nghĩa.  Ông là một nhà thơ lớn của triều Nguyễn, được xếp vào một trong Nguyễn triều Tam Đường  và là một nhà thơ lớn trong hội Mạc Vân thi xã nổi tiếng. Sự nghiệp trước tác của Tùng Thiện Vương rất phong phú (14 tập). Trong số đó đáng kể là Thương Sơn thi tập, gồm 54 quyển chia ra 8 tập với hơn 2.200 bài thơ. Các tác phẩm khác: Thương Sơn từ tập, Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn ngoại tập, Thương Sơn văn di v.v…Nay, Đỗ Chiêu Đức dịch một số bài thơ của ông ra Việt văn (L.M)

LIỄU
Khứ tuế xuân tàn hoàng điểu quy,
Thu dung tiều tụy nguyệt minh tri.
Đông phong tạc dạ xuy hà xứ ?
Cánh nhạ tân sầu thướng hiểu my.

 

TÙNG THIỆN VƯƠNG – MIÊN THẨM

Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm :
LIỄU
Năm ngoái xuân tàn oanh vội bay,
Dáng thu tiều tụy mảnh trăng soi.
Đêm qua gió cuốn về đâu nhỉ ?
Lại rước thêm sầu liễu sáng nay !

Lục bát :
Xuân tàn oanh vội bay về,
Nét thu tiều tụy não nề trăng soi.
Đêm qua gió thổi nhà ai,
Sáng nay sầu đượm nét ngài ủ ê !

Đỗ Chiêu Đức

 

LỤC THỦY

Lục thủy thanh sơn thường tại,

Cô vân dã hạc đồng phi.
Đoản đĩnh liễu biên ách điếu,

Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy.

 

TÙNG THIỆN VƯƠNG – MIÊN THẨM

DIỄN NÔM :

Nước biếc núi xanh còn đó,
Mây đơn hạc lẻ cùng bay.
Xuồng con thả câu bờ liễu,
Sư về cầu nhỏ trăng lay !
Lục Bát :
Núi xanh nước biếc còn đây,
Hạc đơn mây lẻ cùng bay ven trời.
Xuồng con bờ liễu câu hời,
Dưới trăng cầu nhỏ sư hồi thiền môn.

Đỗ Chiêu Đức

3.

KIM TỈNH OÁN

Mỹ nhân chiếu kim tỉnh,
Tỉnh để hoa nhan lãnh.
Không phòng dạ bất quy,
Nguyệt chuyển ngô đồng ảnh.

TÙNG THIỆN VƯƠNG – MIÊN THẨM
 

DIỄN NÔM :

Người đẹp soi giếng vàng,
Dưới giếng dung nhan lạnh.
Phòng không cũng chẳng màng,
Trăng soi ngô đồng ảnh.
Lục Bát :
Săm soi người đẹp giếng vàng,
Lạnh lùng nhan sắc ngỡ ngàng tái tê.
Phòng không đêm chẳng buồn về,
Ánh trăng lay động đã xê ngô đồng !

Đỗ Chiêu Đức

4.

  NAM KHÊ

Loạn sơn thâm xứ nhất khê hoành,
Thập nhị niên tiền trú mã tình
Lưu thủy tự tri nhân sự dị,
Sàn viên bất tác tích lai thinh

TÙNG THIỆN VƯƠNG – MIÊN THẨM

DIỄN NÔM :
 Khe Suối Nam

Ngổn ngang ngàn núi dòng khe cũ,
Dừng ngựa mười năm tình ấp ủ.
Nước chảy như tình người đổi thay,
Róc ra róc rách không như cũ !
Lục Bát :
               Vắt ngang trong suối dòng khe,
               Mười hai năm trước ấp e hàm tình.
               Nước trôi nhân sự điêu linh,
               Chẳng còn róc rách hàm tình như xưa !

Đỗ Chiêu Đức

 

Có 1 bình luận về Dịch thơ chữ Hán của Tùng Thiện Vương

  1. Nguyễn Thị Hạnh nói:

    Cảm ơn học giả Chiêu Đức về một bài nghiên cứu có giá trị.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác