HOC TRUNG HOC TỐNG PHƯỚC HIỆP
Thế là niên học 1962 tôi bắt đầu vào lớp đệ thất 5 của trường Tống Phước Hiệp, nhưng thuở đó có lẽ vì trường mới chưa có đủ lớp nên những lính mới chúng tôi còn phải học một năm ở trường cũ, mang tên Nguyễn Thông mà bấy giờ đã trở thành trường bán công. Lớp học tôi nằm bên phía đối diện với tiểu chủng viện Xuân Bích, được cách bởi con đường đầy cây me còng (loại có trái khi chín thì trở màu đen và tươm mật rất ngọt, khi ăn vào có thể bị say máu ngà). Tôi vẫn còn nhớ anh trưởng lớp tên Hậu, hơi lớn tuổi hơn chúng tôi, nhưng rất hiền và dễ thương. Đến năm đệ lục, anh em chúng tôi lại khăn gói dọn về trường lớn, nằm ngay trên đại lộ Gia Long, đối diện với Sở công chánh, mà ngày đó người dân quen gọi là sở trường tiền. Tại trường mới, lớp của chúng tôi nằm ở tầng hai, ngay hai góc đường Pasteur và Hùng Vương, ngó xuống là thành lính truyền tin.
Trường Tống Phước Hiệp tọa lạc trên một mảnh đất khá rộng, bao quanh bởi bốn con đường, mặt tiền hay phía bắc của trường la đại lộ Gia Long, phía đông là đường Pasteur, phía nam là đường Hùng Vương, tôi không còn nhớ phía tây là con đường tên gì, nhưng phía này giáp với khu phố của chợ Vĩnh Long.
Đây là ngôi trường thiệt đẹp, trong sân trường được trồng nhiều cây phượng vỹ, nhứt là con đường từ cổng đi vào phòng khánh tiết, hai bên được viền bởi hai hàng phượng vỹ thật tuyệt, nhứt là những lúc sắp vào hè, những lúc chúng tôi sắp sửa xa nhau thì hai hàng phượng nở rộ đỏ thắm cả trường. Bây giờ ngồi đây, hơn nửa vòng trái đất xa quê, tôi thấy nhớ thương làm sao những năm tháng vụn dại của tuổi học trò năm xưa. Thời gian qua mau, sau đệ thất, đệ lục, đệ ngũ, rồi đệ tứ, chúng tôi chuẩn bị thi trung học đệ nhất cấp thì được tin cuộc thi này được bộ Giáo Dục hủy bỏ, những ai thi đậu hai kỳ lục cá nguyệt ở trường sẽ được đương nhiên được cấp bằng trung học. Cuối năm đệ tứ, anh em lớp đệ thất 5 của chúng tôi phải chia tay vì trường sắp lớp đệ tam theo ban mà mình chọn, hoặc A (vạn vật), hoặc B (toán), hoặc C (văn chương), hoặc D (cổ ngữ). Ngày đó với tôi chỉ có ban B là thích hợp nhất, vì không có thì giờ học bài nên không dám theo ban vạn vật, không biết gì về văn chương thi phú nên ban văn chương cũng không dám ngó tới, còn cổ ngữ thì hầu như không có người theo. Những năm đầu trung học, vì nhà nghèo, phải phụ mẹ giữ em nên không có giờ học bài vì thế suốt ba năm thất lục ngũ, tôi học hành không giống ai hết, bắt đầu từ năm đệ tứ, tự nhiên tôi học vượt lên hầu hết các bạn trong lớp, nên tháng nào cũng được nhà trường cho vào đứng trong bảng danh dự và cuối năm ấy tôi được lãnh thưởng hạng danh dự, rồi đệ tam và đệ nhị năm nào tôi cũng được lãnh thưởng toàn trường. Tuy nhiên, năm thi tú tài I tôi chỉ đậu hạng bình vì không làm được một câu Việt văn nào. Sau khi xong tú tài I, vì nước hay vì nhà mà tôi phải ra đi, lên đường chinh chiến, bỏ lại sau lưng tất cả những kỷ niệm êm đềm của một thời vàng son ngày đó. Cuộc đời tôi lúc đó cũng nổi trôi theo vận nước, chỉ là một đám mây mù trước mặt, nên tuổi chim non đã ngưng bặt tiếng hót khi chưa chớm bay được vào đời. Thời gian êm đềm đối với tôi như một chớp mắt, thoáng đó mà vật đổi sao dời, con người thay đổi và hoàn cảnh thay đổi. Tuổi trẻ nghèo nàn của tôi qua đi trong cơ hàn vất vả, không có lấy một ngày vui, nhưng những kỷ niệm lưu lại trong tôi là những gì tôi trân quí nhứt đời. Bây giờ dù tuổi trẻ tôi đã qua đi nhưng tâm hồn tôi vẫn như ngày nào, vẫn nhớ nước nhớ quê, nhớ trường xưa bạn cũ với chất ngất kỷ niệm một thời.
Dù tôi không được học hết trung học trong mái trường Tống Phước Hiệp thân yêu, nhưng với tôi, Tống Phước Hiệp lúc nào cũng là nơi thân thương đong đầy kỷ niệm của thời đi học. Nếu không có ngôi trường thân yêu ấy thì năm năm sau, không cách chi tôi có khả năng hoàn tất được hai chương trình đại học ban Anh văn và Việt Hán, và rồi trên bước đường lưu lạc nơi xứ người, cũng không có cách chi mà tôi tiến xa hơn được để thành công trên bước đường sự nghiệp. Tôi muốn nhân bài viết này để cảm ơn tất cả thầy cô và nhân viên của trường, từ thầy cô hiệu trưởng (thầy Đào Khánh Thọ dạy Vạn vật và cô Võ thị Ngọc Dung dạy Sử địa), thầy Nhơn dạy Pháp văn (đã thất lộc), thầy Vỹ dạy toán (đã thất lộc), thầy Bai dạy Lý Hóa, thầy Nguyên dạy Lý Hóa, thầy Hiệp dạy Việt văn, thầy Bảo dạy Lý hóa, thầy Ngẫu dạy Công dân, thầy Côn dạy Pháp văn, cô Phi dạy Anh văn, thầy Nhã dạy Anh văn, hai thầy Diệp (một mắt kiếng và một móm) đều dạy Toán, thầy Quang dạy Toán, cô Ross (người Mỹ dạy Anh văn), thầy Vĩnh dạy vẽ, cô Từ Tiểu Linh và cô Hượt dạy Việt văn. Còn nhiều thầy cô nữa mà tôi không còn nhớ được tên. Tôi cũng xin cảm ơn tất cả nhân viên của trường từ chú y tá, bác lao công đến bác Năm đánh trống (đã thất lộc). Tôi cũng không quên tri ân những bằng hữu đã an ủi và khuyến tấn tôi trong thời hàn vi cơ cực như bạn Hữu An, Lai, Chí Hiếu, Đầy, Dương (đã thất lộc), Thới, Khánh, Hỷ, Dậu, Còn, Phước Anh và Công Danh, Việt Dũng, Hữu Dũng, Hoàng, Đen, Hội, Tấn, Ngọc Huệ, Ngọc Chúc, Tương Thục, Nhạn, Minh Lan và Minh Nga. Tất cả đã gói ghém, đã đong đầy trong tôi không biết bao nhiêu là kỷ niệm, tất cả là một phần đời, một phần kỷ niệm vô cùng tươi đẹp của tôi, mà cho mãi đến hôm nay lúc nào tôi cũng trân trọng mỗi khi chia sẻ những kỷ niệm này với bằng hữu.
Ngưỡng cửa trung học là ngưỡng cửa mà ai trong chúng ta cũng đều có rất nhiều kỷ niệm. Hồi đó ai cũng ngán quý thầy quý cô, thấy mặt là sợ, là ngán. Như năm học Vạn Vật với thầy Thọ, hồi đầu năm học, đứa nào đứa nấy đều ngán thầy vì mặt thầy rất nghiêm. Nhưng rồi thời gian trôi qua, mấy tuần lễ sau đó, riêng tôi không sợ thầy mà tôi kính trọng vì thầy rất nguyên tắc đúng cách của một nhà mô phạm. Cô Dung thì dạy Sử, cô rất hiền, ít khi nào rầy la học trò; tuy nhiên, giờ Sử của cô là giờ cô bắt trả bài nhiều nhất, mà tôi thì ít khi nào thuộc bài sử địa, không phải vì làm biếng mà ngày ngày đi học về là bận giữ em tới tối, đến tối khi mấy em đã đi ngủ thì tới phiên mình cũng nhướng mắt hết lên, nên bài của cô tôi để nguyên trả lại cho cô chứ ít khi học. Hồi đó tôi thích nhứt là giờ toán của mấy thầy Diệp, thầy Quang, thầy Vỹ, và Lý Hóa của thầy Nguyên, thầy Bảo, thầy Bai… vì những giờ này, chỉ cần nghe mấy thầy giảng ở trường là có thể làm bài được nên khỏi phải học bài, rất thích hợp với hoàn cảnh không có giờ học bài của tôi thời đó. Tôi cũng thích giờ Việt Văn của thầy Hiệp, nhứt là những giờ thầy giảng về Kiều, rồi thầy Ngươn dạy Hán văn. Vào giờ học anh văn với cô Phi hồi đó mấy bạn học của tôi hình như ai cũng có biệt hiệu riêng, riêng tôi không hiểu vì sao mà tôi thoát được cái cảnh mang biệt hiệu. Như bạn Trần Chí Hiếu, đọc mãi không ra chữ “picture” mà cứ đọc là phít-chờ, nên từ đó thành danh là “phít-chờ.” Bạn Đầy cũng vậy, đọc mãi không ra chữ “twenty- one,” mà cứ đọc là tu-quen-ti-quanh, nên từ đó về sau hễ nói đến “tu-quen-ti-quanh” là biết ngay đến bạn Đầy. Đầy bây giờ hiện là hiệu trưởng của một trường trung học ở Vĩnh Long. Năm trước tôi về thăm quê, có tìm thăm Đầy.
Tưởng như đã quên vì đã hơn bốn chục năm xa trường rồi còn gì? Bốn chục năm tính ra nó còn dài hơn nửa đời người. Bốn chục năm trôi qua mà tôi cứ tưởng như mới hôm nào, mới hôm nào cùng bạn bè rủ nhau trốn học để đi qua cù lao An Thành, hoặc đạp xe một vòng ngoại ô thành phố Vĩnh Long. Có khi chúng tôi đi từ cầu Thiềng Đức, dọc theo bờ sông Long Hồ đi vô Long Thanh, Long Mỹ, có khi chúng tôi đi ngã Cầu Lầu vô Văn Thánh, rồi đi cầu Ông Me, có khi chúng tôi đi lên cầu Lộ, rồi lên ngã ba Cần Thơ, qua cầu Vồng, rồi trở về bằng ngã phường ba qua cầu Công Xi Heo. Cũng có khi chúng tôi qua cầu Thiềng Đức đi xuống Mỹ An, đây là con đường đẹp nhứt với những ruộng lúa xanh rì hai bên đường, loáng thoáng bên trái chúng tôi là sông Cổ Chiên. Ngày ấy, nhà tôi nghèo lắm nên tôi ít khi dám làm bạn với ai, một phần vì mặc cảm, phần khác không có thì giờ đâu để mà kết bạn. Đi học về, vừa buông tập vở là phải giữ em và dọn dẹp nhà cửa, rồi còn phụ với mẹ để mẹ chuẩn bị cho buổi bán hôm sau. Tuy nhiên, tôi cũng có những người bạn trai cũng nghèo như tôi, đó là các bạn An và Lai từ Cái Nhum lên học. Bạn Còn từ Cổ Cò qua, bạn Hiếu gia đình không giàu lắm, nhưng nhờ ít anh em nên Hiếu rất sướng. Bạn Hội, Khôi và Hoàng ở Long Thanh. Bạn Đầy, thì cha ở trong quân đội, còn bạn Dương ở vùng quê lên trọ học, nhưng bị tai nạn xe honda và qua đời năm đệ ngũ. Ngoài ra, tôi còn một số các bạn nối khố từ thời tiểu học ngay tại thị xã Vĩnh Long như các bạn Bê, Xê (đã thất lộc), bạn Khánh, Hỷ, Dậu, Thới, Lộc (Long Hưng)..
Sau khi bước qua ngưỡng cửa nửa đời người, bây giờ tôi mới thấy hình như không có kỷ niệm nào đẹp hơn những kỷ niệm thời trung học, tiểu học còn quá nhỏ nên chỉ nhớ lan man, đại học thì quá loãng nên thường thì mạnh ai nấy lo, chứ không khắn khít như thời trung học. Thời gian gần 40 năm kể từ ngày tôi rời xa mái trường xưa, thế mà tôi cứ tưởng như mới hôm nào, tất cả những kỷ niệm vẫn còn hiện ra rõ mồn một trong tôi chứ chẳng hề phôi phai tí nào cả. Bây giờ hễ mỗi lần tôi nghe ai nói đến ba chữ “Tống Phước Hiệp” là lòng tôi rộn lên một niềm vui khó tả. Đã bao nhiêu năm trôi qua rồi nhỉ! Đã gần năm thập niên kể từ ngày tôi bước chân vào mái trường thân yêu ngày ấy, và cũng đã gần bốn thập niên kể từ ngày tôi rời xa nó, nhưng sao kỷ niệm về trường Tống Phước Hiệp vẫn còn đong đầy trong tôi. Ngày ấy trường tôi là trường hổn hợp giữa nam và nữ, nên không chỉ khô khan với bộ đồng phục quần tây xanh áo sơ mi trắng, mà thoang thoáng đó đây là những tà áo dài trắng thướt tha của các nữ sinh. Nữ sinh Tống Phước Hiệp hiền lành và dễ thương, hiền lành và dễ thương như chính cái miền đất đã cưu mang họ: Vĩnh Long, Long Hồ, Long Thanh, Long Mỹ, Mỹ An, Phước Hậu, Phước Ngươn, Tân Ngãi, Trường An, Chợ Lách, Tân An Luông, Cái Nhum, Tam Bình, Vũng Liêm, Trà Ôn…
(còn nữa)
Trần Ngọc
xem tiếp: Chuyện tình học sinh Tống Phước Hiệp
h1 Thầy Đào Khánh Thọ – Thầy Liêm – Đinh Kim Phúc- Cô Dung
h2 Tác giả và Huỳnh Hữu Đức (NK69)
Ai cũng có những khuôn mặt bạn bè thân thương gữi lại sân trường, riêng em còn có thêm một khuôn mặt TPH đi bên đời mình để tiếp tục được chia sẻ buồn vui. May mắn lắm thay !
Đọc phần II tự truyện của anh Trần Ngọc thấy nhớ xóm kho dầu cũ quá. Em là thằng bé năm 1968 trọ học ở nhà ông Tư ( Nương, Cang) nè anh. Quê em cùng chợ Cầu Mới với chị H ( Hai gia đình sau nầy là thông gia). Năm em vừa lên đây thì bên kia nhà ông Sáu chị H cũng đưa em gái tên L lên học lớp sáu. Mới đó gần 50 năm rồi !
Anh Ngọc là cựu học sinh TPH , anh là đàng anh lớn của tụi em , năm anh vào đệ thất tụi em mới vào lớp 5 [lớp một bây giờ ] . Hơn 40 mươi năm xa trường mà anh nhớ rất rỏ, rất tỉ mỉ về quí thầy cô của trường nhiều thầy cô em cũng có học . Nhìn hình anh Ngọc trông hiền hòa phúc hậu ,còn anh Huỳnh Hữu Đức niên khóa 69 không biết anh có học chung với ông chú em là Nguyễn Văn Tiếm ban A nk 69 .
Chào Võ Thị Lài,
Mình không biết anh Nguyễn Văn Tiếm, vì khi lên Đệ Nhị cấp, mình theo học Ban B .
Thân chào.
Bài viết của tác giả Trần Ngọc một lần nữa cho chúng ta sống lại tuổi học trò, thời Trung học. Những kỷ niệm thật đẹp dưới mái trường Tống Phước Hiệp, cũng như những khó khăn của đời học sinh trong thời chiến. Ngày xưa MN cũng có biết một số nam sinh phải rời trường vào quân ngũ, khi vừa đậu xong Tú tài I…
Thật khâm phục trí nhớ của anh Trần Ngọc về những người bạn thân thiết, những vị Thầy mà anh đã học qua, cũng như những địa danh mà anh đã từng đến. Chúc anh luôn khỏe và tiếp tục có những hồi ức thật hay.
Bài viết rất thật , rất chân tình ,, nhìn ảnh Thầy Cô trông gần gũi quá. Cảm ơn tác giả Trần Ngọc và mong đọc thêm nhiều bài viết mới .
Hoành Châu (Gia đình C )
Chúc mừng chị Pham thị Trí.
Thật là hạnh phúc, viên mãn
Anh Ngọc thân mến.
Em là em gái của chị Ngọc Chúc. Những kỷ niệm về trường TPH anh còn lưu nhớ nhiều ghê, nhưng có 1 chi tiết em nhớ là cô Hượt dạy Toán chứ không phải dạy môn Văn. Chúc anh sức khỏe dồi dào, hạnh phúc. Thân chào.
Đọc tiếp bài viết của anh Trần Ngọc tôi thật phục anh tài nhớ dai về ngôi trường TPH mà anh đã gắn bó .Anh đúng là học trò rất giỏi ,thông minh . Bao nhiêu kỉ niệm thời xưa anh vẫn nhớ về thầy cô đã dạy ,từng bạn bè ,con đường ,những nơi mà anh đã đi qua ….Ai cũng yêu mến nhất thời học trung học có những hoài bão ,ước mơ , kỉ niệm đẹp không bao giờ quên .Cám ơn anh Trần Ngọc có bài viết thật hay ,mong anh được đọc những bài khác của anh nữa .