Góc Việt Thi : Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (4)
Ngày đăng: 14/06/2021 01:48:28 Chiều/ ý kiến phản hồi (0)
16. Bài thơ ĐỀ PHIẾN (Kỳ 1) :
題扇 ĐỀ PHIẾN
(其一) (kỳ 1)
歌罷薰風日正長, Ca bãi huân phong nhựt chánh trường,
望湖亭上芰菏香。 Vọng hồ đình thượng kỵ hà hương.
俄驚紈扇回天力, Nga kinh hoàn phiến hồi thiên lực,
消得人間六月涼。 Tiêu đắc nhân gian lục nguyệt lương !
* Chú thích :
– ĐỀ PHIẾN 題扇 : Đề Thơ lên Quạt.
– Huân Phong 薰風 : Cơn gió ấm hòa dịu của mùa hè thổi từ Nam sang Bắc.
– Kỵ Hà 芰菏 : KỴ là Ấu, HÀ là Sen; Nói chung KỴ HÀ là chỉ sen súng ấu… mọc trong các ao, hồ, đầm nước.
– Nga Kinh 俄驚 : Bỗng giật mình, chợt giật mình kinh ngạc…
– Hoàn Phiến 紈扇 : Các loại quạt có hình tròn hay hình bầu dục ngày xưa.
– Hồi Thiên Lực 回天力 : Vãn hồi lại cái sức của trời; Ý nói : Cây quạt có thể làm cho thời tiết đang nóng trở thành mát. Chỉ là một cách nói nhấn về công dụng của chiếc quạt mà thôi.
* Nghĩa bài thơ :
ĐỀ THƠ LÊN QUẠT
Ca múa xong rồi nhưng gió vẫn đang nóng và ngày cũng như đang dài ra, trên cái đình trên hồ ta nhìn các hoa ấu hoa súng hoa sen đang tỏa hương thơm. Chợt giật mình kinh ngạc vì chiếc quạt tròn nhỏ bé nầy có thể vãn hồi lại cái sức của trời, làm tiêu tan đi cái nóng mà đem cái mát mẻ đến cho trời tháng sáu nầy.
Nhà vua đã khéo ví von cái năng lực của chiếc quạt tròn nhỏ bé có thể làm nên việc lớn chẳng ai ngờ. Phải chăng chiếc quạt nhỏ bé đó lại được bàn tay xinh xắn của một cung nhân tuyệt đẹp phe phẩy để quạt cho nhà vua, nên mới có cái khả năng “hồi thiên lực” như nhà vua đã cảm nhận, chứ đối với một nông phu tay lắm chân bùn thì “cày đồng đang buổi ban trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” và “Ai ơi, bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!”.
* Diễn Nôm :
ĐỀ PHIẾN
Ca dứt gió hanh ngày tựa dài,
Trên hồ hương tỏa súng sen lay.
Lạ lùng đoàn phiến xoay trời đất,
Tháng sáu mà sao mát mẻ thay !
Thơ tám chữ :
Tiếng ca dứt gió nồng ngày đằng đẵng,
Trên đình hồ lặng ngắm súng sen thơm.
Chợt lạ lùng chếc quạt lụa con con,
Xoay trời đất mát còn hơn tháng sáu !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
17. Bài thơ ĐỀ PHIẾN (Kỳ 10) :
題扇 ĐỀ PHIẾN
(其十) (KỲ 10)
南樓方溽暑, Nam lâu phương nhục thử,
火夏日如年。 Hoả hạ nhật như niên.
卻愛掌中物, Khước ái chưởng trung vật,
能參造化權。 Năng tham tạo hóa quyền.
* Chú thích :
– Phương 方 : là Đúng lúc; đang nhằm lúc.
– Nhục Thử 溽暑 : Ẩm thấp nóng nực đến bức rức.
– Hỏa Hạ 火夏 : chỉ Nắng của mùa hè nóng như lửa, ta gọi là Lửa Hạ.
– Chưởng Trung Vật 掌中物 : Đồ trong lòng bàn tay, ở đây chỉ Cây quạt.
– Tham 參 : là Tham gia, là Can dự vào.
* Nghĩa bài thơ :
Đề Thơ Lên Quạt
Lầu phía nam đang lúc nóng như thiêu như đốt, lửa hạ nóng nực làm cho người ta có cảm giác là ngày dài như năm. Nên lại đâm ra yêu thích cái vật đang cầm trong tay (cây quạt), vì nó có thể can dự vào uy quyền của tạo hóa (Ý nói cây quạt có thể làm cho thời tiết đang nóng nực trở nên mát mẻ!).
* Diễn Nôm :
ĐỀ PHIẾN
Lầu nam đang nóng bức,
Lửa hạ, ngày như năm.
Vật trong tay yêu dấu,
Can dự quyền hóa công !
Lục bát :
Lầu nam nóng bức đang khi,
Ngày dài lửa hạ khác gì như năm.
Yêu thay vật trong tay cầm,
Thay quyền tạo hóa xoay vần mát thay !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
18 . Bài thơ ĐỀ PHIẾN (Kỳ 8) :
Đây là bài thơ Lục Ngôn Thi duy nhất trong mười bài ĐỀ PHIẾN của nhà vua. Căn cứ theo ý nghĩa của bài thơ, theo tôi thì bài nầy nên lui xuống thứ mười (Kỳ Thập) cho thích ứng với vai trò và công dụng của cây quạt hơn khi gió tây đã bắt đầu phe phẩy !
題扇 ĐỀ PHIẾN
(其八) (Kỳ bát)
赫赫空中火扇, Hách hách không trung hỏa phiến,
甚明君子行宜。 Thậm minh quân tử hành nghi.
折折西風暑退, Chiết chiết tây phong thử thoái,
正知君子藏時。 Chính tri quân tử tàng thì !
* Chú thích :
– Hách Hách 赫赫 : Chữ HÁCH 赫 được ghép bởi 2 bộ XÍCH 赤 là màu đỏ, nên HÁCH HÁCH là Đỏ chói, là rực rỡ, là Hừng hực, là Rõ rệt, là Hiển Hách.
– Thậm 甚 : là Rất, Thậm Minh 甚明 là Hiểu rất rõ ràng tường tận.
– Chiết Chiết 折折 : ở đây là từ Tượng thanh, có nghĩa Xào Xạc, hây hẩy, hắc hiu. TÂY PHONG 西風 là gió từ hướng Tây thổi đến, là gió của mùa thu.
– Tàng 藏 : là Cất, giấu. TÀNG THÌ 藏時 là Lúc nên cất giấu lại, từ nầy đối chọi với từ HÀNH NGHI 行宜 là Lúc nên đem ra dùng ở câu 2. Đối với Sự Vật thì như thế, còn đối Con Người thì HÀNH 行 là lúc hoạt động, như ra thi cử, làm quan , tạo dựng công danh sự nghiệp… Còn TÀNG 藏 là lúc chưa gặp thời, còn ẩn mình hay lúc đã thoái quan về hưu ở ẩn.
* Nghĩa bài thơ :
Đề Thơ Trên Quạt (bài số 8)
Hừng hực trên không nóng như là đang quạt lửa (chỉ khí hậu nóng bức của mùa hè), thì hiểu rất rõ ràng rằng chính là lúc người quân tử phải đem ra dùng (cây quạt). Đến khi gió tây hây hẩy làm cho cái nóng lui đi (chỉ mùa thu tới), thì biết rằng chính là lúc người quân tử đem cất nó đi.
Con người “quân tử” bạc bẽo là thế đó, khi cần thì chìu chuộng đủ điều, ấp yêu hết mức; đến lúc đã không còn cần nữa thì đem cất giấu hay vứt bỏ một bên chẳng thiết ngó ngàng. Đọc bài thơ nầy của ông vua lại làm cho ta nhớ đến 2 câu cuối trong bài Trường Tín Cung của Lưu Phương Bình 劉方平《長信宮》đời Đường là :
秋風能再熱, Thu phong năng tái nhiệt,
團扇不辭勞。 Đoàn phiến bất từ lao !
Có nghĩa :
Cơn gió thu nếu có thể “nóng trở lại” được, thì cây quạt tròn (bị dứt bỏ) nầy cũng sẽ chẳng từ lao nhọc mà sẽ sẵn sàng quạt mát cho đấng quân vương ! Tội nghiệp thay cho số phận của những nàng cung nữ bị bỏ quên trong cung vua lạnh lẽo, khao khát cả những gì bạc bẽo nhất ở trên đời nầy.
* Diễn Nôm :
ĐỀ PHIẾN
(kỳ 8)
Hừng hực trên không lửa đốt,
Là thời quân tử ấp yêu.
Hiu hắt gió tây thôi nóng,
Là khi quân tử hết chìu !
LỤc bát :
Không gian hầm hập như thiêu,
Là khi quân tử ấp yêu chẳng rời.
Gió tây se sắt đến nơi,
Cất đi quân tử quên rồi thuở xưa !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
19 . Bài thơ ĐIỆU ĐỒNG KHÍ :
悼同氣 ĐIỆU ĐỒNG KHÍ
憶昔玉樓連帳夜, Ức tích ngọc lâu liên trướng dạ,
淒涼今日異存亡。 Thê lương kim nhật dị tồn vong.
乘鸞遊覓無消息, Thừa loan du mịch vô tiêu tức,
望美人兮天一方。 Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương !
* Chú thích :
– Điệu Đồng Khí 悼同氣 : là Truy điệu người cùng chung chí khí.
– Liên Trướng 連帳 : LIÊN là Liền nhau, sát cạnh nhau; TRƯỚNG cái màn, cái mùng để ngủ cho muỗi khỏi cắn. LIÊN TRƯỚNG là hai cái mùng giăng sát cạnh nhau.
– Dị Tồn Vong 異存亡 : là Khác biệt giữa còn và mất, giữa sống vả chết.
– Thừa Loan 乘鸞 : là Cởi chim loan (bay về cỏi tiên giới) chỉ đã chết.
– Câu “望美人兮天一方 Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương” : Có xuất xứ từ bài Tiền Xích Bích Phú 前赤壁賦 của Tô Thức 蘇軾 (Đông Pha) đời Tống. Ý nói : Nhìn về một phương trời để nhớ đến người đẹp nơi đó. Người Đẹp (Mỹ Nhân) ở đây ám chỉ nhà vua lúc bấy giờ; còn trong bài thơ nầy “người đẹp” chính là “người bạn cùng chung chí khí” với vua Lê Thánh Tông.
* Nghĩa bài thơ :
Truy Điệu Người Cùng Chung Chí Khí.
Nhớ lúc xưa trên lầu ngọc, hai ta cùng ngủ sát liền mùng với nhau (để cùng tâm sự). Còn hôm nay thì lạnh lẽo làm sao khi đã khác biệt giữa người còn kẻ mất. Bạn đã cởi chim loan bay đi tìm nơi dạo chơi không còn biết được tin tức gì nữa cả. Ta chỉ còn có nước ngóng trông về một phương trời để nhớ về bạn mà thôi !
Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài hát nói “Vịnh Tiền Xích Bích” của cụ Nguyễn Công Trứ với các câu như :
… Ông Tô Tử qua chơi Xích Bích,
Một con thuyền với một túi thơ
Gió hiu hiu mặt nước như tờ
Trăng chếch chếch đầu non mới ló
Thuyền một lá xông ngang gành bạch lộ
Buông chèo hoa len lỏi chốn sơn cương
Ca rằng:
Quế trạo hề lan tương 桂棹兮蘭槳,
Kích không minh hề tố lưu quang 擊空明兮溯流光
Diếu diếu hề dư hoài 渺渺兮予懷,
Vọng Mỹ Nhân Hề Thiên Nhất Phương 望美人兮天一方。
Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương
Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước…
* Diễn Nôm :
ĐIỆU ĐỒNG KHÍ
Nhớ xưa lầu ngọc sát mùng đôi,
Lạnh lẽo giờ đây sống chết rồi.
Biệt tích cởi loan chơi xứ lạ,
Riêng ta nhớ bạn ngắm phương trời !
Lục bát :
Nhớ xưa lầu ngọc liền màn,
Hôm nay sống thác vô vàn thê lương
Cởi loan biệt tích ngàn phương,
Góc trời lặng ngắm đoạn trường riêng ta !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
20. Bài thơ ĐỈNH HỒ :
鼎湖 ĐỈNH HỒ
鑄鼎湖邊日, Chú đỉnh hồ biên nhật,
雲煙秀氣鍾。 Vân yên tú khí chung.
乘龍仙去遠, Thừa long tiên khứ viễn,
水上碧溶溶。 Thủy thượng bích dung dung.
* Chú thích :
– Đỉnh Hồ 鼎湖 : Tên hồ nằm ở thành phố Bảo Linh, tỉnh Hà Nam Trung Hoa. Theo truyền thuyết Hiên Viên Huỳnh Đế 軒轅黃帝 đã khai quật mỏ đồng ở trên núi Thủ Sơn và dùng nước của Đỉnh Hồ để đúc đỉnh đồng ở dưới chân núi Kinh Sơn. Đỉnh đúc xong thì vua băng, cởi rồng mà lên tiên. Hiện còn khu di tích lịch sử và là điểm du lịch nóng ở nơi nầy.
– Chú 鑄 : là Hun đúc, trui rèn.
– Tú Khí 秀氣 : chỉ khí chất đẹp đẽ hùng vĩ của núi sông. TÚ KHÍ cũng dùng để chỉ cái dáng vẻ đẹp đẽ thanh thoát của con người, nhất là dùng để chỉ các cô thiếu nữ mới lớn.
– Chung 鍾 :là Tập trung, gom góp lại.
– Bích Dung Dung 碧溶溶 : BÍCH là màu xanh biếc; DUNG 溶 có ba chấm thủy 氵 là Tan Chảy như DUNG DỊCH 溶液. DUNH DUNG đi liền nhau là Hình Dung Từ chỉ “thế nước tuôn chảy mênh mông”.
* Nghĩa bài thơ :
ĐỈNH HỒ
Cái ngày đúc đỉnh ở bên bờ hồ, thì mây khói khí chất đẹp đẽ hùng vĩ của núi sông như cũng được gom góp đúc kết lại. Nay thì người đúc đỉnh đã cởi rồng lên tiên về nơi xa rồi, nhưng mặt hồ nước vẫn còn mênh mông xanh biếc !
* Diễn Nôm :
ĐỈNH HỒ
Ngày bờ hồ đúc đỉnh,
Khí thiêng sông núi gom.
Cởi rồng tiên xa khuất,
Nước hồ mãi xanh om !
Lục bát :
Ngày nao đúc đỉnh bờ hồ,
Khí thiêng sông núi chực chờ khói mây.
Cởi rồng tiên đã xa bay,
Mặt hồ nước biếc vẫn đầy mênh mông.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài viết tới :
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (5)
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức