Chữ TÀI

Ngày đăng: 19/03/2025 06:44:25 Chiều/ ý kiến phản hồi (0)
 
          TÀI 財 là Tiền Tài 錢財; TÀI 材 là Tài Liệu 材料; TÀI 栽 Trồng Trọt ; TÀI 裁 là May cắt; TÀI 纔 là Vừa mới…  Ở đây ta chỉ nói về TÀI 才 là năng lực, là sự hiểu biết, là bản lĩnh của người, vật sống chung quanh ta. TÀI 才 thuộc dạng chữ dùng Tượng Hình để Chỉ Sự, có diễn tiến chữ viết như sau :                  
 
                             Inline image
       TÀI 財 là Tiền Tài 錢財; TÀI 材 là Tài Liệu 材料; TÀI 栽 Trồng Trọt ; TÀI 裁 là May cắt; TÀI 纔 là Vừa mới…  Ở đây ta chỉ nói về TÀI 才 là năng lực, là sự hiểu biết, là bản lĩnh của người, vật sống chung quanh ta. TÀI 才 thuộc dạng chữ dùng Tượng Hình để Chỉ Sự, có diễn tiến chữ viết như sau :
                   Giáp Cốt Văn   Đại Triện    Tiểu Triện      Lệ Thư       Khải Thư
                     Inline image
Ta thấy :
         Từ Giáp Cốt Văn, Đại Triện là hình tượng của một cây mầm ở dưới mặt đất mới đưa được một lá mầm ở giữa lên trên mặt đất mà thôi. Đến Tiểu Triện thì các nét được kéo thẳng ra và đến chữ Lệ và chữ Khải thì đã giống như chữ viết hiện nay. Vì chữ TÀI 才 có nghĩa gốc là cây mầm non đang vươn lên từ dưới đất với sức sống mạnh mẽ, nên nghĩa phát sinh là cái năng lực tiềm tàng, cái bản lĩnh tiềm ẩn của ai đó kể cả kiến thức hiểu biết và thông suốt mọi việc. Từ tiêu biểu nhất cho chữ TÀI là …
    – TÀI NĂNG 才能 : là Tài trí và Năng lực, là sự hiểu biết tiềm ẩn chưa được thể hiện và bản lĩnh năng lực làm việc của một người nào đó.
    – TÀI NGHỆ 才藝 : NGHỆ là Ngành nghề, nên Tài Nghệ chỉ giỏi giang hay vượt trội về một ngành nghề hay một bộ môn nghệ thuật nào đó, như thể thao, âm nhạc…
    – TÀI HOA 才華 : HOA nầy không phải là bông hoa, mà là Vầng sáng bên ngoài chung quanh mặt trăng mặt trời; nên HOA là ánh hào quang tỏa sáng. Vì thế nên TÀI HOA có nghĩa là Khả năng tỏa sáng hơn người khác về phương diện nào đó, thường dùng để chỉ các bộ môn nghệ thuật như : Cầm kỳ thi họa… Các Trạng nguyên Tiến sĩ… ngày xưa thường được ca ngợi là TÀI HOA XUẤT CHÚNG 才華出眾 có nghĩa là vượt trội tỏa sáng hơn những người thường về các mặt Tứ thư Ngũ kinh, Thi Từ Ca Phú… Khi lần đầu tiên hẹn ước với Kim Trọng, sau khi ca ngợi chàng Kim “Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn“, Thúy Kiều đã tự đánh giá mình “…phận mỏng cánh chuồn“, nhưng cũng ngầm ý tự hào thông qua lời thầy “tướng sĩ” đoán trước là :
                  …  Anh hoa phát tiết ra ngoài,
               Nghìn thu bạc mệnh một đời TÀI HOA !
    – TÀI TRÍ 才智 : Chỉ Tài năng và Trí tuệ, có nghĩa vừa có tài vừa thông minh, biết xử lý khéo léo trong những trường hợp khó khăn lắt léo.
    – TÀI CÁN 才幹 : CÁN có nghĩa là LÀM, nên TÀI CÁN là có tài năng để thực hiện một công việc nào đó, chứ không phải chỉ nói suông. Có nghĩa “Vừa hiểu biết vừa làm được việc”. Như “Anh ta rất có Tài Cán chứ không chỉ biết nói suông!”
    – TÀI TÌNH 才情 là từ Hán Việt thuần Việt, thường dùng để chỉ “Sự giỏi giang và khéo léo đến mức đáng khâm phục”. Như “Nét vẽ thật tài tình. Tiếng đàn  đó rất tài tình…” Như trong bài hát nói “Cầm, Kỳ, Thi, Tửu” của Nguyễn Công Trứ sau khi trình bày các TÀI HOA của mình như :
                 Đàn năm cung réo rắt tính tình đây,
                 Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.
                 Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
                 Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
…Cụ đã hạ câu kết là :
                        TÀI TÌNH dễ mấy xưa nay !
                  Inline image
    – TÀI ĐỨC 才德 : TÀI là Tài hoa, ĐỨC là Đức hạnh. Nên TÀI ĐỨC là vừa có tài hoa lại vừa có đức hạnh; Có nghĩa “Vừa giỏi giang lại vừa khiêm tốn, vừa đắc lực lại vừa có đức độ vị tha”, đó là hai tiêu chuẩn không thể thiếu của người quân tử khi xưa, nhất là khi đã ra làm quan thì càng phải chú trọng nhiều hơn về vấn đề TÀI ĐỨC. Có Tài có Đức thì mới là quan thanh liêm cần chính và mới xứng đáng là “Phụ mẫu chi dân”. Người Hoa gọi là “TÀI ĐỨC KIÊM BỊ 才德兼備” Ta nói là “TÀI ĐỨC SONG TOÀN 才德雙全”. Còn đối với các bà các cô thì phải có…
    – TÀI SẮC 才色 : Là Tài hoa và Sắc đẹp; như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã đề cao nàng cung phi khi còn chưa nhập cung là :
                   TÀI SẮC đã vang lừng trong nước,
                   Bướm ong càng xao xác ngoài hiên…
    – TÀI MẠO 才貌 : là Tài hoa và Diện mạo, nói cho đúng là Mỹ Mạo 美貌, có nghĩa là “Vừa tài hoa lại vừa có diện mạo đẹp đẽ”, như thành ngữ mà ta thường gặp là TÀI MẠO SONG TOÀN 才貌雙全, là đầy đủ cả tài hoa và sắc đẹp ! Thành ngữ nầy như thành ngữ TÀI MẠO XUẤT CHÚNG 才貌出眾 chỉ : Tài hoa và diện mạo đều hơn người (XUẤT CHÚNG 出眾 là Vượt lên trên quần chúng nhân dân) Cả hai thành ngữ nầy đều được dùng cho cả nam lẫn nữ.
      Trong tác phẩm Sãi Vãi của cụ Nguyễn Cư Trinh cũng đã cho bà Vãi đề cao các giới nữ TÀI MẠO SONG TOÀN, TÀI MẠO XUẤT CHÚNG vừa có TÀI vừa có SẮC từ xưa đến nay như sau :
          … Kìa như Châu Thái Tỷ, kinh còn khen đức rạng khuê môn.
              Nọ như Tống Tuyên Nhơn, sử còn ngợi nữ trung Nghiêu, Thuấn.
              Gái như Tạ Đạo Uẩn, gái mà hay vịnh tuyết thành thơ;
              Gái như Thái Văn Cơ, gái mà biết phân cầm nên khúc.
              Chương gián chúa khỏi vòng dật dục, ấy là Đường Từ Huệ thứ phi.
              Thơ cứu cha khỏi chốn tai nguy, nọ như Hớn Đề Oanh thiếu nữ…
 
       Inline image
                Châu Thái Tỷ, Tống Tuyên Nhơn, Tạ Đạo Uẩn, Thái Văn Cơ, Đường Từ Huệ, Đề Oanh . 
    * CHÂU THÁI TỶ 周太姒 người đời Tây Châu, là chính phi của Châu Văn Vương, Mẹ của Châu Võ Vương. Bà vừa đẹp người đẹp nết, biết phân ưu quốc sự với chồng, dạy con nghiêm khắc, kính trên nhường dưới, rất được bá quan và thần dân kính trọng là một mẫu nghi tài đức trong thiên hạ.
    * TỐNG TUYÊN NHƠN 宋宣仁 : là Tống Tuyên Nhơn Thánh Liệt Hoàng Hậu Cao Thị (1032-1093). Bà là Hoàng hậu của Tống Anh Tông, mẹ của Tống Thần Tông và là bà nội của Tống Triết Tông. Bà đã rất hiền đức, chấp chính với chính sách cần kiệm liêm chính, đem lại nền kinh tế phồn vinh và sự an cư lạc nghiệp cho dân chúng dưới đời Tống Triết Tông của thời Bắc Tống. Bà được đời sau ca ngợi là  NỮ TRUNG NGHIÊU THUẤN 女中堯舜 (là vua Nghiêu vua Thuấn trong giới nữ).
    * TẠ ĐẠO UẨN 謝道韞 : là con của tướng quân Tạ Diệc 謝奕, cháu của thừa tướng Tạ An 謝安, là vợ của Vương Ngưng Chi con trai thứ của nhà thư Pháp nổi tiếng đời Đông Tấn là Vương Hi Chi. Tạ Đạo Uẩn rất giỏi về văn thơ, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, sắc sảo. Khi Tạ An hỏi các cháu lúc đang ngắm cảnh tuyết rơi là : Có thể lấy gì để ví với tuyết rơi ? Một cháu trai là Tạ Lãng trả lời rằng : Sái viêm không trung sai khả nghỉ 撒盐空中差可拟 (Có thể nói là như rắc muối giữa không trung). Tạ Đạo Uẩn nói rằng : Vị nhược liễu nhứ nhân phong khởi 未若柳絮因风起 !(Chẳng bằng nói là hoa liễu bay đầy trời khi có gió thổi lên). Tạ An khen hay, Tạ Đạo Uẩn nổi tiếng từ đấy.
    * THÁI VĂN CƠ 蔡文姬 : tên Diễm 琰, tự là Văn Cơ 文姬 (có sách cho là Chiêu Cơ 昭姬) Người quận Trần Lưu, là nữ văn học gia đời Đông Hán, con của nhà văn học Thái Ung, học rộng nhiều tài, giỏi về văn học, thư pháp, âm nhạc, giỏi về đàn cầm, là một tài nữ đương thời. Có chồng là Vệ Trọng Đạo, chồng chết về nhà cha mẹ. Đời Đông Hán, Trung nguyên đại loạn, bộ tộc Hung Nô thừa cơ làm phản. Thái Văn Cơ bị Hung Nô bắt đi, sanh được hai con ở Hung Nô. Sau khi Tào Tháo thống nhất phương bắc, mới chuộc Thái Văn Cơ về gả cho Đổng Kỵ.
    * TỪ HUỆ 徐惠(627-650): Người đất Trường Thành Hồ Châu, là cháu gái bốn đời của Từ Nguyên Hầu Từ Văn Chỉnh, là trưởng nữ của Thứ Sử Từ Hiếu Đức. Bốn tuổi bà đã thuộc Luận Ngữ và Kinh Thi, Tám tuổi đã biết làm văn. Đường Thái Tông nghe tiếng mới nạp bà vào trong cung làm Tài Nhân. Từ Huệ hưu bút thành văn, tứ thi mẫn tiệp, nên rất nhanh đã thăng làm Tiệp Dư, rồi lại thăng làm Sung Dung, Thứ Phi. Bà là Phi Tần được Lý Thế Dân yêu mến nhất. Cuối năm Trinh Nguyên triều đình bận chinh phạt tứ Di, rồi lại xây cất cung điện, sưu cao thuế nặng, dân chúng lầm than. Thứ Phi Từ Huệ đã làm sớ dâng lên vua can gián và tiết chế đời sống xa hoa trong cung, lời lẽ khảng khái chân thành thẳng thắng được nhà vua hết lời ngợi khen tán thưởng. Sau khi Đường Thái Tông mất, bà cũng ưu sầu nhuốm bệnh rồi mất theo khi mới được 24 tuổi.
    * ĐỀ OANH 緹縈 : Tên họ đầy đủ là THUẦN VU ĐỀ OANH 淳于緹縈, người đất Lâm Chuy đời Tây Hán. Bà là con gái út của Thái Thương Lệnh Thuần Vu Ý. Ý trị bệnh chết người, bị khép tội nhục hình, trên đường bị giải về kinh để nhận tội, Ý than cho gia cảnh của mình chỉ có 5 con gái, đến khi nhà gặp chuyện không có lấy một con trai để đở đần. Nàng Đề Oanh đã theo cha đến tận kinh thành, dâng thơ lên Hán Văn Đế xin làm tì thiếp để chuộc tội nhục hình cho cha, lời văn chân thành khẩn thiết, khiến cho Hán Văn Đế cảm động, chẳng những tha tội cho cha nàng mà còn phế bỏ luôn hình phạt nhục hình tàn khốc. Sử gia Ban Cố đời Hán đã khen trong bài thơ ngũ ngôn “Vịnh Sử” rằng :”Bách nam hà hội hội, Bất như nhất Đề Oanh 百男何憒憒,不如一緹縈”. Có nghĩa :”Một trăm thằng con trai ngơ ngáo, không bằng được một gái Đề Oanh !”.
      Trong văn học cổ nàng Đề Oanh tượng trưng cho người con gái có hiếu với cha mẹ. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Nữ Tú Tài, nàng Phi Nga giả trai cũng theo về kinh để xin tội cho cha là Văn Sác :
                    Rằng : Xưa có gái ĐỀ OANH,
                 Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ tài.  
      Còn trong Truyện Kiều khi quyết định bán mình chuộc tội cho cha, Thúy Kiều cũng đã đắn đo cân nhắc hết lòng vì chữ hiếu :
                    Dâng thơ đã thẹn Nàng OANH,
                  Lại thua Ả Lý bán mình hay sao !?
      Những phụ nữ giỏi giang nổi tiếng trong lịch sử từ xưa đến nay được gọi chung là CÂN QUẮC KỲ TÀI 巾幗奇才. CÂN 巾 là khăn tay; QUẮC 幗 là khăn cột đầu. CÂN QUẮC là hai loại khăn thường dùng để làm đẹp của phụ nữ; nên CÂN QUẮC 巾幗 là từ tiêu biểu dùng để chỉ phái nữ, cũng như TU MI 鬚眉 (Râu và chân mày) là từ tiêu biểu dùng để chỉ phái nam vậy. Nên CÂN QUẮC KỲ TÀI 巾幗奇才 là thành ngữ chỉ chung giới nữ có những biệt tài kỳ lạ giỏi giang hơn người đời thường.
            Inline image
       Nam giỏi giang thì gọi là TÀI TỬ 才子, TÀI LANG 才郎 (Lang là Chàng); Còn nữ mà giỏi giang thì gọi là TÀI NỮ 才女, TÀI NƯƠNG 才娘 (Nương là Nàng). Ta có thành ngữ LANG TÀI NỮ MẠO 郎才女貌 để chỉ “Con trai thì phải giỏi, còn con gái thì phải đẹp”. LANG TÀI NỮ MẠO còn dùng để chỉ “Trai gái rất xứng lứa vừa đôi” với nhau, như ta thường nói là “Trai Tài Gái Sắc” vậy !. Còn người mà giỏi giang thì gọi là NHÂN TÀI 人才 nói chung;  nhưng TÀI NHÂN 才人 lại là một chức sắc của phi tần trong hậu cung của nhà vua. Còn người mà ưu tú hơn người khác về nhiều mặt thì gọi là TÚ TÀI 秀才. Trong các khoa thi ngày xưa TÚ TÀI là một chức sắc chỉ đứng sau Cử Nhân mà thôi. Trong chế độ khoa cử của Miền Nam ta trước 1975, sau khi thi Trung Học Đệ Nhất Cấp (Đệ Tứ) thì phải qua kỳ thi TÚ TÀI 1 (Đệ Nhị) và TÚ TÀI 2 (Đệ Nhất) mới vào Đại học được.
       Ngoài TÚ TÀI ra ta còn hay gặp từ THIỆN TÀI 善才; THIỆN là Thiện nghệ là giỏi về một bộ môn nghệ thuật nào đó. Ngày xưa THIỆN TÀI thường dùng để chỉ những người giỏi về các bộ môn Cầm Kỳ Thi Họa… Như trong bài thơ trường thiên “Tì Bà Hành” của Bạch Cư Dị, khi nàng ca kỹ già kể lại lúc mình còn trẻ :
                 曲罷常教善才服,   Khúc bãi thường giáo THIỆN TÀI phục,
                 妝成每被秋娘妒。   Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
      Có nghĩa :
              – Mỗi lần đàn xong một khúc thường làm cho các THIỆN TÀI (chỉ các thầy đàn giỏi) phải khâm phục, cũng như…
              – Mỗi lần trang điểm xong đều bị các Thu Nương (chỉ các cô kỹ nữ đẹp như Đỗ Thu Nương) ganh tị (vì thấy mình không đẹp bằng).
                 Một khúc  Thiện Tài thường thán phục,
                 Điểm trang mỗi độ  sánh Thu Nương.
      Nhắc đến THIỆN TÀI ta không thể không nói đến danh hiệu THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ 善才童子. Theo Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân thì Thiện Tài Đồng Tử là Hồng Hài Nhi con của Ngưu Ma Vương và Thiết Phiến Công Chúa được Phật bà Quan Thế Âm Bồ Tát thu phục làm đệ tử. Nhưng theo kinh Hoa Nghiêm thì Thiện Tài Đồng Tử có tên Phạn là Sudhana kumāra sống dưới thời Phật Tổ bên cổ Ấn Độ, được chứng đạo bởi Phổ Hiền Bồ Tát, viên mãn Phật quả, hồi hướng vãn sanh Tây phương cực lạc thế giới. Ta thường thấy bên cạnh của Quan Thế Âm Bồ Tát có hai đồng nam và đồng nữ. Đồng Nam chính là Thiện Tài Đồng Tử, còn Đồng Nữ là Long Nữ, theo kinh Pháp Hoa là con của Long Vương Bà Yết La Na Gia (Sagara-nagaraja). Long nữ thông minh linh lợi, lúc tám tuổi khi nghe Văn Thù Bồ Tát giảng kinh Pháp Hoa, đốn nhiên giác ngộ, thông đạt Phật pháp, phát bồ đề tâm mà thành chánh quả. Thiện Tài Đồng Tử cùng Long Nữ còn được người đời gọi là KIM ĐỒNG NGỌC NỮ đứng hầu hai bên Quan Thế Âm Bồ Tát.

Inline image

     Như trên đã nói, chữ TÀI còn được bổ nghĩa bởi những Hình dung từ đứng trước nó, như TÚ TÀI, THIỆN TÀI, ngoài ra ta còn có :
    – ANH TÀI 英才 : chữ ANH 英 với Thảo đầu 艹 là hình tượng của cây cỏ đang vươn lên với sức sống mạnh mẽ; nên ANH TÀI là Tài hoa trẻ trung đầy sức sống đang vươn lên. Thường được dùng để chỉ những người tuổi trẻ mà tài hoa hơn người.
    – HIỀN TÀI 賢才 : HIỀN 賢 ngoài nghĩa Hiền từ ra, HIỀN còn có nghĩa là GIỎI, như THÁNH HIỀN 聖賢 là những ông Thánh tài giỏi; HIỀN THẦN 賢臣 là Bề tôi giỏi giang giúp vua dựng nước giữ nước. Nên HIỀN TÀI là những người có tài giỏi; HIỀN TÀI còn là một trong bốn phẩm Ban Thế Ðạo của Cao Đài Giáo là : Hiền Tài, Quốc Sĩ, Ðại Phu, Phu Tử.
    – HÙNG TÀI 雄才 : HÙNG là con trống, là Hào hùng; nên HÙNG TÀI thường dùng để chỉ “Tài năng xuất chúng của những người làm việc lớn” với thành ngữ HÙNG TÀI ĐẠI LƯỢC 雄才大略 để chỉ những người kiệt xuất có mưu đồ làm nên sự nghiệp lớn. Có xuất xứ từ sách Hán Thư, chương Võ Đế Kỷ Tán 武帝纪赞: Nói lên cái HÙNG TÀI ĐẠI LƯỢC của Hán Võ Đế về chính sách cai trị và chăm lo cho đời sống của dân chúng.
    – VĂN TÀI 文才 : Là có tài giỏi về các mặt văn chương, như Thi, Từ, Ca, Phú… VĂN TÀI hiện nay là những người giỏi viết văn, làm thơ, thuyết trình… và những người dẻo miệng, có tài ăn nói giỏi còn được gọi là có KHẨU TÀI 口才.
    – THIÊN TÀI 天才 là Tài năng do thiên phú, chỉ những người có năng khiếu đặc biệt, có sức tưởng tượng siêu việt, trời sanh ra đã giỏi về các bộ môn nào đó rồi. Ngày xưa THIÊN TÀI là những thần đồng, những người có trí nhớ siêu việt, văn sách đọc qua một lượt là nhớ ngay; Còn THIÊN TÀI của thế giới hiện nay là những nhà Vật lý học, những Khoa học gia như Albert Einstein, Isaac Newton, Michael Faraday…
    – LƯƠNG TÀI 良才 : LƯƠNG ngoài nghĩa Lương thiện ra, còn có nghĩa là Tốt lành, giỏi giắn. Nên LƯƠNG TÀI là Tài giỏi. Ta thường nghe thành ngữ “Kỳ phùng địch thủ, Tướng ngộ lương tài 棋逢敵手,將遇良才” Có nghĩa : Đánh cờ gặp phải tay địch thủ, Đánh trận gặp được tướng giỏi giang. Ý chỉ hai bên đều ngang tài ngang sức, khó phân thắng bại. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ Hồi thứ 34 trong truyện Tâu Du Ký của Ngô Thừa Ân tả lại trận đánh giữa Ngân Giác Đại Vương và Tôn Ngộ Không ở trước cửa Liên Hoa Động.

Inline image

      Ngày xưa, các thư sinh suốt mười năm vùi mài với đèn sách bên song cửa sổ không ai thèm hỏi đến, nhưng hễ thi đậu một cái, nhất là đậu Tiến Sĩ với các hàm Trạng Nguyên, Bảng Nhãn hay Thám Hoa thì cả thiên hạ đều biết tên. Nên thi đậu là vừa Thành Danh (nổi tiếng) lại vừa THÀNH TÀI 成才; cũng như hiện nay thi đậu bằng Luật sư, Kỹ sư, Bác sĩ… thì đều gọi được là đã THÀNH TÀI rồi ! THÀNH TÀI còn có nghĩa là “Nên thân”, nên “BẤT THÀNH TÀI 不成才 !” là “Không nên thân !”. Còn những người không làm nên trò trống gì cả, vô tích sự thì được gọi là DUNG TÀI 庸才. DUNG là Dung tục, là tầm thường. Nhà văn Kim Dung 金庸 lấy chữ DUNG nầy với ý khiêm tốn : Mình chỉ là một nhà văn tầm thường mà thôi ! Thực ra ông tên thật là Tra Lương Dung 查良鏞. với chữ DUNG 鏞 có bộ Kim 金 bên trái, có nghĩa là “Cái chuông lớn”. Năm 1955 khi viết quyển tiểu thuyết võ hiệp đầu tay là “Thư Kiếm Ân Cừu Lục 書劍恩仇錄”, ông mới chiết tự chữ DUNG 鏞 ra thành hai chữ KIM DUNG 金庸 để làm bút hiệu. Rồi từ đó ông nổi tiếng luôn với bút hiệu nầy qua 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp để đời như ta đã biết.
       Người có tài lớn, rất giỏi, rất hay thì gọi là ĐẠI TÀI 大才, giỏi về rất nhiều bộ môn ngành nghề thì gọi là ĐA TÀI 多才. Giỏi một cách kỳ lạ, ngoài sức tưởng tượng của con người thì gọi là QUỸ TÀI 鬼才; còn ngờ nghệch ngu xuẩn thì gọi là XUẨN TÀI 蠢才. Từ nầy còn được dùng để mắng người khác :”Đồ Xuẩn Tài !” giống như là từ “Đồ Ngu, đồ ngốc !” của ta vậy. Còn những người chỉ biết nịnh bợ, hoặc chỉ để làm tay sai cho người khác thì gọi là NÔ TÀI 奴才. Lời mắng “Đồ Nô Tài !” giống như là “Đồ Tay sai, đồ hèn hạ, đồ nịnh bợ !” vậy .
                       Inline image
      TÀI giỏi còn được gọi là TÀI CAO 才高, như trong thành ngữ TÀI CAO BÁT ĐẤU 才高八斗. Theo tích sau đây :
      Tạ Linh Vận 謝靈運 (385-433), người đời Đông Tấn ở đất Cối Kê, thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay. Ông nguyên là cháu nội của danh tướng Tạ Huyền 謝玄, tiểu tự là Khách, nên người đời gọi là Tạ Khách, lại được hưởng tước Khang Lạc Công, nên còn được gọi là Tạ Khang Lạc 謝康樂. Ông là nhà thơ khai sáng ra phái Sơn Thủy Thi 山水詩, chủ yếu sáng tác thơ tả về núi non sông nước của đời Lưu Tống vào thời Nam Bắc Triều  . Ông nổi tiếng với các câu thơ như :

                    Dã khoáng sa ngạn tịnh,      野旷沙岸净,
                    Thiên cao thu nguyệt minh.   天高秋月明.
    Có nghĩa :
                    Đồng không bãi cát mênh mông,
                    Trời thu cao vút trăng lồng bóng gương.

          Sơn Thủy Thi là một trường phái lớn của văn học sử thi ca Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến đời Đường sau nầy với các thi nhân lớn như Lý Bạch, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên… Chúa nhà Tống lúc bấy giờ là Lưu Dụ, nên gọi thời nầy là Lưu Tống, bề ngoài thì như xem trọng nhà họ Tạ, nhưng thực tế thì dần dần cắt bớt quyền hành đi, nên Tạ Linh Vận không còn được trọng vọng như trước. Thất ý trên trường chính trị, nên Tạ gởi gắm tâm sự vào tư tưởng Lão Trang qua thơ sông núi. Do bất đắc chí vì tài hoa xuất chúng, nên Tạ luôn tỏ ra khinh thế ngạo vật, cho mình là tài giỏi hơn cả thiên hạ. Tạ đã từng nói là : “Nếu như tất cả tài hoa trong thiên hạ là một thạch (gồm có 10 đấu), thì Tào Tử Kiến 曹子建 (tức Tào Thực 曹植, con trai thứ của Tào Tháo, rất giỏi về văn thơ) giữ hết 8 đấu rồi, ta giữ một đấu, còn một đấu là của tất cả những người trong thiên hạ”. Câu nói nầy nghe ra có vẻ như là tôn sùng Tào Thực, thực ra là đang xem thường thiên hạ, vì cho là cả thiên hạ cộng lại mới bằng được mình ! Do tánh khí và thái độ cao ngạo, nên Tạ Linh Vận làm mất lòng hết các đồng liêu và quyền thần lúc bấy giờ. Cuối cùng, bị biếm đến Quảng châu và chết ở nơi đó khi mới có 49 tuổi mà thôi.

 
     Vì câu nói của Tạ Linh Vận, nên hình thành một thành ngữ thông dụng trong tiếng Hoa là : TÀI CAO BÁT ĐẤU 才高八斗 hay BÁT ĐẤU CHI TÀI 八斗之才 để chỉ những người tài hoa xuất chúng, vượt trôi hơn hẵn những người khác. Thi Tiên Lý Bạch trong bài tự Đào Lý Viên cũng phải hạ câu :
          Ngô nhân vịnh ca, độc tàm Khang Lạc.  吾人詠歌,獨慚康樂.
Có nghĩa :
         Chúng ta ngâm vịnh ngày hôm nay, chỉ thẹn riêng với ông Khang Lạc mà thôi. (Khang Lạc tức Khang Lạc Công 康樂公 chỉ Tạ Linh Vận 謝靈運 đó).
                    Inline image
                         Khang Lạc Công 康樂公  Tạ Linh Vận 謝靈運 
 
     Trong văn học sử của ta cũng có một người Tài Cao Bát Đấu nhưng không gặp thời giống như là Tạ Linh Vận vậy, đó chính là …
     CAO BÁ QUÁT 高伯适 (1809 – 1855) : Tự là Chu Thần (周臣), hiệu là Mẫn Hiên (敏軒), lại có hiệu là Cúc Đường (菊堂), là quân sư trong cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cuộc đời Cao Bá Quát lắm gian truân chìm nổi, bất đắc chí như ông đã than vản trong bài Tài Tử Đa Cùng Phú
 才子多窮賦 rằng :
              Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướt thướt, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa; 
              Đèn cỏn con ron chiếc chiếu lôi thôi, đêm tịch mịch soi chung vầng trăng tỏ. 
              Áo Trọng Do bạc phếch, giãi xuân thu cho đượm sắc cần lao; 
              Cơm Phiếu Mẫu hẩm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ. 
              Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy; 
              Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ. …
       Vì tài giỏi nhưng không gặp thời, nên theo truyền thuyết dân gian Cao Bá Quát rất cao ngạo, ông từng nói là :
                  Trong thiên hạ có 4 bồ chữ.
                  Một mình  tôi giữ hết 2 bồ.
                  Anh tôi Bá Đạt và bạn tôi Nguyễn văn Siêu giữ một bồ.
                  Còn một bồ phân phát cho thiên hạ !  
 
                        Inline image
Ta thấy, Tạ Linh Vận và Cao Bá Quát đều là những nhân tài hiếm thấy và rất có tài đặc biệt trên đời, nhưng vì hoàn cảnh khốn cùng bức bách, sinh bất phùng thời hình thành tính cách cao ngạo với cuộc đời, thậm chí đến nước làm phản để đến nổi thân bại danh liệt, bị tru di tam tộc như Cao Bá Quát thì thật cũng đáng thương và đáng thông cảm lắm thay !
       Nhắc tới Tào Thực 曹植, người mà Tạ Linh Vận cho là có TÀI CAO BÁT ĐẤU, ta lại nhớ đến bài thơ 7 bước (Thất bộ Thi 七步詩) của ông. Sau khi lên ngôi là Ngụy Văn Đế, nhưng vẫn còn ganh tị với tài năng của người em, Tào Phi 曹丕 mới nói với Tào Thực rằng : “Ai cũng bảo là văn tài của nhà ngươi giỏi hơn ta, vậy ta hạn cho ngươi trong vòng bảy bước phải làm xong một bài thơ, nếu không làm được, sẽ trị tôị khi quân”. Tào Thực xin đề, thì Tào Phi bảo là : Nói về Anh Em mà không được dùng từ anh em trong bài thơ. Đoạn bắt đầu bước đi và đếm, khi vừa đúng 7 bước thì Tào Thực cũng vừa cất tiếng ngâm :
              煮豆燃豆萁,      Chữ đậu nhiên đậu cơ,
              豆在釜中泣.      Đậu tại phủ trung khấp.
              本是同根生,    Bổn thị đồng căn sanh,
              相煎何太急 ?!   Tương tiễn hà thái cấp ?!
Có nghĩa :
        – Lấy vỏ đậu để làm củi nấu đậu. Nên …
        – Đậu mới than khóc ở trong nồi rằng…
        – Vốn là cùng chung một gốc rể sinh ra.
        – Đốt nấu lẫn nhau, sao mà nở nhẫn tâm làm vậy ?!
                  Củi đậu đem nấu đậu,
                  Đậu than khóc trong nồi.
                  Cũng cùng chung một rể,
                  Nấu nhau đành, hỡi ôi !!!
            Inline image
                       Bài thơ 7 bước và thành ngữ THẤT BỘ CHI TÀI 七步之才
       Tào Phi nghe xong bài thơ, rất xúc động, ôm chầm lấy Tào Thực và từ đó tới sau, không có ý muốn giết hại em mình nữa ! Vì tích nầy nên ta lại có được hai thành ngữ nữa : Một là THẤT BỘ CHI TÀI 七步之才; Có nghĩa là “Cái tài chỉ làm thơ trong vòng bảy bước !”. Hai là TÀI TỨ MẪN TIỆP 才思敏捷; Có nghĩa “Sự suy nghĩ và cấu tứ rất mẫn tiệp nhanh nhạy !”
       Những người có tài mà không gặp thời, gọi là HOÀI TÀI BẤT NGỘ 懷才不遇; Những người có các năng khiếu mà người khác không thể có được thì gọi là HY THẾ CHI TÀI 希世之才; Còn tài năng vượt trội lên trên những người khác không ai bằng được thì gọi là TÀI LỰC SIÊU QUẦN 才力超群 hay còn gọi là NHÂN TÀI XUẤT CHÚNG 人才出眾; Vừa giỏi văn lại vừa giỏi võ nữa thì gọi là VĂN VÕ SONG TOÀN 文武雙全 hay VĂN VÕ TOÀN TÀI 文武全才, hay còn được gọi cho kêu là TÀI KIÊM VĂN VÕ 才兼文武 !
      Có tài thì thế, còn không có tài thì gọi là LỤC LỤC THƯỜNG TÀI 碌碌常才 hay LỤC LỤC VÔ TÀI 碌碌無才. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ sách 《Sử Ký.Bình Nguyên Quân Liệt Truyện 史記·平原君虞卿列傳》 chỉ những người dung tục bình thường, không có tài năng gì đặc biệt. Hay nói một cách lịch sự hơn là TÀI SƠ HỌC THIỂN 才疏學淺 nghĩa đen thui là “Tài Thưa Học Cạn”, ta thường nói thành “TÀI HÈN SỨC MỌN”. Thành ngữ trên còn được nói thành TÀI THÔ HỌC THIỂN 才粗學淺 để chỉ tài năng thì thô kêch còn sự hiểu biết  thì  nông cạn.
      Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, ta cũng thường hay gặp những trường hợp “Càng cao danh vọng thì dày gian nan“, “Lớn thuyền thì lớn sóng“… như Thúy Kiều vậy, vì “Anh hoa phát tiết ra ngoài“, nên phải chịu “Nghìn thu bạc mệnh một đời TÀI HOA”.   Nên chi cụ Nguyễn Du khi kết thúc Truyện Kiều đã viết rằng :
                      Có TÀI mà cậy chi TÀI,
                Chữ TÀI liền với chữ TAI một vần !
 …và với thuyết TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ 才命相妒 cho rằng TÀI và MỆNH thường đố kỵ ganh ghét lẫn nhau. Người có tài thì số mạng hay lận đận như để thách thức và những người tài trí bình thường thì cuộc đời cũng sẽ bình thường phẵng lặng hơn, như cuộc đời của Thúy Vân chẳng hạn và theo thuyết nhà Phật thì cho rằng đó là do cái “nghiệp” của mỗi người mà ra, nên cụ lại khuyên ta nên yên phận với “Cái Nghiệp” của mình :
                     Đã mang lấy nghiệp vào thân,
                Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa…
 
… và lời tâm huyết cuối cùng là :
                                                 Thiện căn ở tại lòng ta,
                                          Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI !
                                                                                                 杜紹德

                                                                                     Đỗ Chiêu Đức

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác