* CHÂU THÁI TỶ 周太姒 người đời Tây Châu, là chính phi của Châu Văn Vương, Mẹ của Châu Võ Vương. Bà vừa đẹp người đẹp nết, biết phân ưu quốc sự với chồng, dạy con nghiêm khắc, kính trên nhường dưới, rất được bá quan và thần dân kính trọng là một mẫu nghi tài đức trong thiên hạ.
* TỐNG TUYÊN NHƠN 宋宣仁 : là Tống Tuyên Nhơn Thánh Liệt Hoàng Hậu Cao Thị (1032-1093). Bà là Hoàng hậu của Tống Anh Tông, mẹ của Tống Thần Tông và là bà nội của Tống Triết Tông. Bà đã rất hiền đức, chấp chính với chính sách cần kiệm liêm chính, đem lại nền kinh tế phồn vinh và sự an cư lạc nghiệp cho dân chúng dưới đời Tống Triết Tông của thời Bắc Tống. Bà được đời sau ca ngợi là NỮ TRUNG NGHIÊU THUẤN 女中堯舜 (là vua Nghiêu vua Thuấn trong giới nữ).
* TẠ ĐẠO UẨN 謝道韞 : là con của tướng quân Tạ Diệc 謝奕, cháu của thừa tướng Tạ An 謝安, là vợ của Vương Ngưng Chi con trai thứ của nhà thư Pháp nổi tiếng đời Đông Tấn là Vương Hi Chi. Tạ Đạo Uẩn rất giỏi về văn thơ, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, sắc sảo. Khi Tạ An hỏi các cháu lúc đang ngắm cảnh tuyết rơi là : Có thể lấy gì để ví với tuyết rơi ? Một cháu trai là Tạ Lãng trả lời rằng : Sái viêm không trung sai khả nghỉ 撒盐空中差可拟 (Có thể nói là như rắc muối giữa không trung). Tạ Đạo Uẩn nói rằng : Vị nhược liễu nhứ nhân phong khởi 未若柳絮因风起 !(Chẳng bằng nói là hoa liễu bay đầy trời khi có gió thổi lên). Tạ An khen hay, Tạ Đạo Uẩn nổi tiếng từ đấy.
* THÁI VĂN CƠ 蔡文姬 : tên Diễm 琰, tự là Văn Cơ 文姬 (có sách cho là Chiêu Cơ 昭姬) Người quận Trần Lưu, là nữ văn học gia đời Đông Hán, con của nhà văn học Thái Ung, học rộng nhiều tài, giỏi về văn học, thư pháp, âm nhạc, giỏi về đàn cầm, là một tài nữ đương thời. Có chồng là Vệ Trọng Đạo, chồng chết về nhà cha mẹ. Đời Đông Hán, Trung nguyên đại loạn, bộ tộc Hung Nô thừa cơ làm phản. Thái Văn Cơ bị Hung Nô bắt đi, sanh được hai con ở Hung Nô. Sau khi Tào Tháo thống nhất phương bắc, mới chuộc Thái Văn Cơ về gả cho Đổng Kỵ.
* TỪ HUỆ 徐惠(627-650): Người đất Trường Thành Hồ Châu, là cháu gái bốn đời của Từ Nguyên Hầu Từ Văn Chỉnh, là trưởng nữ của Thứ Sử Từ Hiếu Đức. Bốn tuổi bà đã thuộc Luận Ngữ và Kinh Thi, Tám tuổi đã biết làm văn. Đường Thái Tông nghe tiếng mới nạp bà vào trong cung làm Tài Nhân. Từ Huệ hưu bút thành văn, tứ thi mẫn tiệp, nên rất nhanh đã thăng làm Tiệp Dư, rồi lại thăng làm Sung Dung, Thứ Phi. Bà là Phi Tần được Lý Thế Dân yêu mến nhất. Cuối năm Trinh Nguyên triều đình bận chinh phạt tứ Di, rồi lại xây cất cung điện, sưu cao thuế nặng, dân chúng lầm than. Thứ Phi Từ Huệ đã làm sớ dâng lên vua can gián và tiết chế đời sống xa hoa trong cung, lời lẽ khảng khái chân thành thẳng thắng được nhà vua hết lời ngợi khen tán thưởng. Sau khi Đường Thái Tông mất, bà cũng ưu sầu nhuốm bệnh rồi mất theo khi mới được 24 tuổi.
* ĐỀ OANH 緹縈 : Tên họ đầy đủ là THUẦN VU ĐỀ OANH 淳于緹縈, người đất Lâm Chuy đời Tây Hán. Bà là con gái út của Thái Thương Lệnh Thuần Vu Ý. Ý trị bệnh chết người, bị khép tội nhục hình, trên đường bị giải về kinh để nhận tội, Ý than cho gia cảnh của mình chỉ có 5 con gái, đến khi nhà gặp chuyện không có lấy một con trai để đở đần. Nàng Đề Oanh đã theo cha đến tận kinh thành, dâng thơ lên Hán Văn Đế xin làm tì thiếp để chuộc tội nhục hình cho cha, lời văn chân thành khẩn thiết, khiến cho Hán Văn Đế cảm động, chẳng những tha tội cho cha nàng mà còn phế bỏ luôn hình phạt nhục hình tàn khốc. Sử gia Ban Cố đời Hán đã khen trong bài thơ ngũ ngôn “Vịnh Sử” rằng :”Bách nam hà hội hội, Bất như nhất Đề Oanh 百男何憒憒,不如一緹縈”. Có nghĩa :”Một trăm thằng con trai ngơ ngáo, không bằng được một gái Đề Oanh !”.
Trong văn học cổ nàng Đề Oanh tượng trưng cho người con gái có hiếu với cha mẹ. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Nữ Tú Tài, nàng Phi Nga giả trai cũng theo về kinh để xin tội cho cha là Văn Sác :
Rằng : Xưa có gái ĐỀ OANH,
Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ tài.
Còn trong Truyện Kiều khi quyết định bán mình chuộc tội cho cha, Thúy Kiều cũng đã đắn đo cân nhắc hết lòng vì chữ hiếu :
Dâng thơ đã thẹn Nàng OANH,
Lại thua Ả Lý bán mình hay sao !?
Những phụ nữ giỏi giang nổi tiếng trong lịch sử từ xưa đến nay được gọi chung là CÂN QUẮC KỲ TÀI 巾幗奇才. CÂN 巾 là khăn tay; QUẮC 幗 là khăn cột đầu. CÂN QUẮC là hai loại khăn thường dùng để làm đẹp của phụ nữ; nên CÂN QUẮC 巾幗 là từ tiêu biểu dùng để chỉ phái nữ, cũng như TU MI 鬚眉 (Râu và chân mày) là từ tiêu biểu dùng để chỉ phái nam vậy. Nên CÂN QUẮC KỲ TÀI 巾幗奇才 là thành ngữ chỉ chung giới nữ có những biệt tài kỳ lạ giỏi giang hơn người đời thường.