Chùm thơ KHÚC HÁT HÁI SEN (2)
Ngày đăng: 8/08/2024 05:49:25 Sáng/ ý kiến phản hồi (0)
Thái Liên Khúc 採蓮曲
江南採蓮女, Giang Nam thái liên nữ,
春波秋水間. Xuân ba thu thủy gian.
Có nghĩa :
Giang Nam cô gái hái sen,
Sóng xuân nước biếc hoa chen lẫn người.
Từ đời Lưỡng Hán cho đến Nam Bắc Triều hình ảnh của các cô gái hái sen, đất Giang nam được vẽ thành tranh, ca thành thơ, tấu thành khúc hát giữa vùng trời nước mênh mông sông ngòi chằn chịt của miền quê hương sông nước Giang Nam với phong cảnh hữu tình và các cô yểu điệu thục nữ xinh tươi lồng trong những chuyện tình nên thơ chất phát dễ đánh động lòng người.
Kịp đến đời nhà Đường, thời đại hoàng kim của thi ca, thì các thi nhân đua nhau vẽ nên những bức tranh “Hái Sen” bằng thi ca qua các bài thơ Cổ phong, Thất ngôn tuyệt cú, Ngũ ngôn tuyệt cú… như :
6. Bài thơ VIỆT NỮ TỪ 越女詞 (其三) của Thi Tiên Lý Bạch 李白 :
越女詞 VIỆT NỮ TỪ
(其三) (Kỳ tam)
耶溪採蓮女, Da Khê thái liên nữ,
見客棹歌回。 Kiến khách trạo ca hồi.
笑入荷花去, Tiếu nhập hà hoa khứ,
佯羞不出來。 Dương tu bất xuất lai.
* Chú thích :
– VIỆT NỮ TỪ 越女詞 : Bài ca từ về các cô gái đất Việt. VIỆT ở đây là Ngô Việt 吳越 vùng sông nước của miền nam Trung Hoa từ các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang… trở về Nam; là lãnh địa của nước Ngô và nước Việt thời Chiến Quốc.
– DA KHÊ 耶溪 : là Nhược Da Khê 若耶溪 là Khe suối Nhược Da từ Nhược Da Sơn chảy thành sông về hướng bắc đổ vào sông Vận Hà. Bên bờ sông có một bãi đá nổi tiếng là Hoán Sa Thạch 浣紗石, tương truyền đây là nơi ngày xưa người đẹp Tây Thi và các cô gái nước Việt thường giặt tơ giặt lụa nơi nầy.
– THÁI LIÊN NỮ 採蓮女 : Từ dùng gọi chung cho “Các cô gái hái sen”.
– TRẠO 棹 : là Mái chèo; Động từ có nghĩa là Chèo.
– DƯƠNG 佯 : là Giả đò, giả bộ. DƯƠNG TU 佯羞 : là Làm bộ mắc cở, e thẹn.
* Nghĩa bài thơ :
BÀI CA TỪ VỀ CÁC CÔ GÁI VIỆT
Các cô gái hái sen bên dòng khe Nhược Da của đất Việt, trông thấy khách lạ bèn vừa hát vừa trở chèo, mĩm cười bơi vào trong đám hoa sen. Làm bộ như là thẹn thùng ở mãi trong đó chẳng chịu bơi ra.
* Diễn Nôm :
VIỆT NỮ TỪ (3)
Cô hái sen khe Da,
Thấy khách trở chèo ca.
Cười len vào rừng lá,
Thẹn thùa chẳng chịu ra !
Lục bát :
Da Khê cô gái hái sen,
Chợt thấy khách bèn trở lái vào trong.
Tiếng ca vẳng trong sen hồng,
Hổ ngươi cả thẹn đừng hòng đợi ra.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.
Cuộc sống nông tang của các cô cậu vùng sông nước Giang nam còn được thể hiện qua việc hái sen của các nàng thôn nữ. Thi Tiên Lý Bạch đã ghi lại trong một khoảnh khắc rất nên thơ trong một đêm thu trăng sáng qua bài LỘC THỦY KHÚC 淥水曲 trong Nhạc phủ như sau :
7. Bài thơ LỘC THỦY KHÚC 淥水曲 của Thi Tiên LÝ BẠCH 李白 :
淥水曲 LỘC THỦY KHÚC
淥水明秋月, Lộc thủy minh thu nguyệt,
南湖採白蘋。 Nam hồ thái bạch tần.
荷花嬌欲語, Hà hoa kiều dục ngữ,
愁殺盪舟人。 Sầu sát đãng chu nhân.
* Chú thích :
– LỘC THỦY KHÚC 淥水曲 : LỘC THỦY là Nước có màu xanh, chỉ nước thật trong; Nhưng LỘC THỦY KHÚC là tên của một khúc hát trong Nhạc Phủ.
– NAM HỒ 南湖 : là Phía nam của Hồ Động Đình. Động Đình Hồ là hồ nước lớn nhất Giang Nam và cũng là hồ nước lớn nhất của Trung Hoa.
– BẠCH TẦN 白蘋 : là Bông súng trắng, thường mọc lẫn với hoa sen, vì cùng là loài tảo rể ăn xuống bùn, lá nổi trên mặt nước và nở hoa màu trắng. Trong cổ nhạc ta cũng có bài ca Vọng Cổ BÔNG SÚNG TRẮNG của soạn giả Viễn Châu do danh ca Minh Cảnh và nữ nghệ sĩ Lệ Thủy trình bày :
– KIỀU 嬌 : là Yêu kiều đẹp đẽ dễ thương; KIỀU DỤC NGỮ 嬌欲語 là Đẹp đến như muốn nói, đẹp nũng nịu dễ thương.
– SẦU SÁT 愁殺 : là Buồn muốn chết; buồn não nuột; buồn thắm thía.
– ĐÃNG CHU 盪舟 : là lúc lắc cho thuyền đi tới; là Chèo thuyền.
* Nghĩa bài thơ :
KHÚC HÁT NƯỚC TRONG
Làn nước trong xanh làm cho trăng thu như càng sáng hơn lên; Ta thả một chiếc thuyền con ở phía nam Hồ Động Đình để hái bông súng trắng; Nhìn thấy các hoa sen chen lẫn trong đám lá xanh đẹp não nùng như muốn nói nên lời; Làm cho người chèo thuyền là ta đây cảm thấy như có một nỗi buồn da diết đến lặng người.
Nhìn thấy đóa hoa sen vừa chớm nở, các cánh hoa còn chưa bung hẵn ra như cô thiếu nữ đang hàm tiếu còn e ấp như muốn cười lại thôi, muốn nói lại ngừng; vẻ đẹp thẹn thùa đáng yêu dễ làm say đắm lòng người :”Hà hoa kiều dục ngữ, Sầu sát đãng chu nhân”… Lời thơ đã dứt, nhưng tình ý như còn vương vấn mãi với người “đãng chu” trên mặt hồ mênh mông mây nước !…
* Diễn Nôm :
LỘC THỦY KHÚC
Nước trong sáng trăng thu,
Súng trắng hồ nam hái.
Sen đẹp như muốn nói…
Sầu chết người “đãng chu” !
Lục bát :
Nước trong càng sáng trăng thu,
Súng trắng tìm hái bờ hồ phía nam.
Lá xanh bông trắng nhị vàng…
Tựa như muốn nói sầu sang người chèo !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Không phải chỉ có các thi nhân làm thơ “Hái Sen” mà đến cả ông vua tài hoa văn võ song toàn Đường Thái Tông 唐太宗 Lý Thế Dân 李世民 cũng có bài thơ làm theo thể Cổ Phong là “Thái Phù Dung 採芙蓉” như sau :
Đường Thái Tông Lý Thế Dân
8. Bài thơ THÁI PHÙ DUNG 採芙蓉 của Đường Thái Tông 唐太宗 :
採芙蓉 THÁI PHÙ DUNG
結伴戲方塘,攜手上雕航。 Kết bạn hí phương đường, Huề thủ thướng điêu hàng.
船移分細浪,風散動浮香。 Thuyền di phân tế lãng, Phong tán động phù hương.
游鶯無定曲,驚鳧有亂行。 Du oanh vô định khúc, Kinh phù hữu loạn hàng.
蓮稀釧聲斷,水廣棹歌長。 Liên hi xuyến thanh đoạn, Thủy quảng trạo ca trường.
棲烏還密樹,泛流歸建章。 Thê ô hoàn mật thụ, Phiếm lưu quy Kiến Chương.
* Chú thích :
– THÁI PHÙ DUNG 採芙蓉 : là Hái hoa Phù dung; là Hái Sen. Như ta đã biết ở bài trước, hoa Sen còn có tên là THỦY PHÙ DUNG là Hoa Phù dung ở dưới nước.
– KẾT BẠN 結伴 : là Vầy đoàn với nhau; là Tụ tập; là KẾT BẠN.
– PHƯƠNG ĐƯỜNG 方塘 : Nghĩa đen là “Cái ao vuông”. Nghĩa phát sinh là : Cái ao lớn rộng chừng nửa mẫu đất và có làn nước trong như gương.
– ĐIÊU HÀNG 雕航 : Những chiếc thuyền có vẽ vời điêu khắc đẹp đẽ của giới quý tộc nhà giàu ngày xưa dùng để du ngoạn dưới sông nước; còn được gọi là HỌA PHẢNG 畫舫.
– TẾ LÃNG 細浪 : Những gợn sóng nhỏ; Sóng gợn lăn tăn.
– PHÙ HƯƠNG 浮香 : Hương thơm của hoa sen thoang thoảng như nổi trên mặt ao.
– DU OANH 游鶯 : Những con chim hoàng oanh bay nhảy hót líu lo như đang dạo chơi.
– KINH PHÙ 驚鳧 : Làm giật mình những con le le, vịt trời.
– XUYẾN THANH 釧聲 : Tiếng leng keng của các vòng đeo tay (của Cung nữ).
– TRẠO CA 棹歌 : Tiếng hát của những trạo phu (người chèo thuyền).
– MẬT THỤ 密樹 : Những hàng (rừng) cây rậm rạp.
– KIẾN CHƯƠNG 建章 : Tên một cung trong hậu cung của nhà vua. Ngoài Kiến Chương còn có cung Chiêu Dương như trong bài thơ TIỆP DƯ OÁN 婕妤怨 của Hoàng Phủ Nhiễm 皇甫冉 đời Đường :
花枝出建章, Hoa chi xuất Kiến Chương,
鳳管發昭陽。 Phụng quản phát Chiêu Dương.
借問承恩者, Tá vấn thừa ân giả,
雙蛾幾許長? Song nga kỷ hứa trường?
Có nghĩa :
Cành hoa nở cung KIẾN CHƯƠNG,
Sáo phượng dìu dặc CHIÊU DƯƠNG rộn ràng.
Hỏi người yêu dấu điện vàng,
Đã dài được mấy hai hàng mày nga ?!
* Nghĩa bài thơ :
HÁI HOA PHÙ DUNG
Các cung nhân trong cung cùng vầy đoàn vui chơi với nhau bên hồ sen rộng lớn, rồi cùng nắm tay nhau bước lên những chiếc thuyền hái sen đẹp đẽ. Thuyền lướt đi nhè nhẹ chia đôi làn nước đang gợn sóng tăn tăn. Gió hiu hiu lay động làm cho mùi hương của hoa sen như trôi nổi thoang thoảng trên mặt hồ. Những con chim hoàng oanh bay hót những khúc nhạc líu lo vô định và đàn vịt trời như giật mình bay tán loạn chẳng thành hàng ngũ gì nữa cả. Sen hái đã gần xong nên tiếng leng keng trên vòng đeo tay của các người đẹp cũng thưa dần, trong khi tiếng hát của các tay chèo vẫn còn văng vẳng kéo dài ra. (Trời về chiều) Các con qụa cũng đã tìm về nương tựa ở các hàng cây rậm rạp và dòng nước trôi nổi cũng như đang đưa thuyền tìm về với cung Kiến Chương.
Bài thơ mang khẩu khí của một quân vương đang ngắm nhìn cảnh vui chơi trong một buổi hái sen của các cung nhân trong cung vua với đầy đủ thanh sắc của ngũ giác quan : Nhìn các cung phi cùng vầy đoàn vui vẻ kéo lên thuyền, nhìn thuyền đi trong gió nhẹ trong các gợn sóng có lẫn mùi hương sen thoang thoảng, hòa vào trong cảnh thiên nhiên với oanh hót vịt bay; tiếng cười nói và vòng tay leng keng của các người đẹp chập chờn lẫn khuất trong tiếng hát hò của các trạo phu trên sông nước… Qủa là một bức tranh toàn bích. Cảnh hái sen vui chơi trong cung như là một màn vũ đạo lớn của các cung nhân hòa vào cảnh thiên nhiên nên thơ hữu tình như một bức tranh “Thái Liên Đồ” đầy thi vị dưới ngòi bút của một quân vương thi sĩ.
Bài thơ còn thể hiện tài hoa của ông vua tài tử với mười câu là năm cặp đối nhau chan chát nhưng lại rất sống động một cách thật tự nhiên không chút gò bó nào cả !
* Diễn Nôm :
THÁI PHÙ DUNG
Vầy đoàn bên hồ nước,
Nắm tay bước xuống thuyền.
Thuyền đi chia sóng lướt,
Gió thổi đưa hương sang.
Líu lo oanh vui hót,
Giật mình vịt lìa đàn.
Sen vơi xuyến tay nhặt,
Nước lớn tiếng ca vang.
Quạ chiều nương rừng rậm,
Kiến Chương thuyền về ngang.
Song thất Lục bát :
Cùng vầy đoàn vui chơi bến nước,
Nắm tay nhau vui bước xuống thuyền.
Thuyền len sóng nhẹ lướt êm,
Hương sen theo gió bồng bềnh đâu đây,
Tiếng oanh hót vui vầy đây đó,
Đàn vịt trời nương gió lao xao.
Sen vơi tiếng xuyến vơi theo,
Lẫn trong sông nước tiếng chèo ca vang.
Rừng cây qụa đã về ngang,
Thuyền sen về lại cung hoàng Kiến Chương.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới :
THÁI LIÊN KHÚC 採蓮曲 của Vương Bột, người đứng đầu của SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT 初唐四傑.
杜紹德