Đọc Xích Bích của Đỗ Mục
Một trong những bài Thất ngôn Tứ tuyệt của nhà thơ Đỗ Mục được người Việt Nam ta biết đến nhiều nhất, đó là bài Xích Bích ( Còn có tựa là Xích Bích Hoài Cổ ). Mời anh chị em cùng đọc bài thơ nầy dưới đây :
赤壁 XÍCH BÍCH
折戟沉沙鐵未銷, Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
自將磨洗認前朝。 Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
東風不与周郎便, Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
銅雀春深鎖二喬。 Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều !
杜牧 Đỗ Mục
CHÚ THÍCH :
XÍCH BÍCH : Trận chiến xảy ra ở tháng 10 năm Kiến An 13 đời Hán Hiến Đế ( 208 sau Công Nguyên ). Đây là trận chiến quan trọng để hình thành thế Tam Quốc. Kết thúc với liên quân Lưu Bị và Tôn Quyền đánh bại 80 vạn quân của Tào Tháo. Nhân vật nổi trội nhất của trận chiến này là vị Đô Đốc 34 tuổi văn võ song toàn, tài hoa rất mực của xứ Đông Ngô là Chu Du (còn được gọi là Châu Do ).
TIÊU : là hao mòn, rỉ sét.
ĐÔNG PHONG : Gió đông, ngọn gió chướng của tháng 10 đã giúp cho Chu Du dùng thế hỏa công đốt tiêu và đánh tan 80 vạn quân của Tào Tháo.
CHU LANG : là Chu Du hay Chu Công Cẩn, Đô Đốc thống lĩnh tam quân thủy bộ của Đông Ngô. Người đã đánh tan 80 vạn quân Tào Tháo trên sông Xích Bích.
Ngoài tài cầm binh và thao lược, Chu Du còn là một nghệ sĩ tài hoa lỗi lạc, giỏi cả cầm kỳ thi họa, nhất là về đàn tranh. Thường có câu : ” Khúc hữu ngộ, Chu lang cố “. Có nghĩa : Nếu khúc đàn có sai sót, thì chàng Chu sẽ chiếu cố, chỉ điểm cho ngay ! Xin được nhắc lại bài ngũ ngôn tứ tuyệt Thính Tranh nổi tiếng của Lý Đoan sau đây :
聽箏 李端 THÍNH TRANH Lý Đoan
鳴箏金粟柱 , Minh tranh kim túc trụ,
素手玉房前. Tố thủ ngọc phòng tiền.
欲得周郎顧 , Dục đắc Chu Lang cố,
時時誤拂絃 . Thời thời ngộ phất huyền.
Diễn nôm :
Thánh thót đùa phím ngọc
Tay ngà nắn cung mơ
Muốn chàng Chu chiếu cố
Thường để lạc phím tơ
Lục bát :
Trục vàng phím ngọc vấn vương
Tay ngà nắn nót cung thương mơ màng
Muốn chàng chiếu cố ngó ngàng
Nàng thường để lạc phím đàn cung tơ !
Đỗ Chiêu Đức.
TIỆN : là phương tiện, là tiện lợi.
ĐỒNG TƯỚC : là Đồng Tước đài do Tào Tháo xây dựng nên để thị uy và để hưởng lạc.
NHỊ KIỀU : Tức là 2 nàng Kiều, Đại Kiều là vợ của Tôn Sách ( anh của Tôn Quyền, người dựng nên nước Đông Ngô ), Tiểu Kiều là vợ của Chu Du.
NGHĨA BÀI THƠ :
Ngọn giáo gãy vùi chìm trong cát, nhưng sắt vẫn không bị hao mòn rỉ sét. Ta đem nó rột rửa sach sẽ vẫn còn nhận được là đồ của triều đại trước. Ôi, nếu như gió đông không làm phương tiện cho Chu Du đánh thắng trận, thì đền Đồng Tước của Tào Tháo đã khóa xuân hai nàng Kiều của Giang Đông mất rồi !
Đây là một bài thơ Vịnh Sử với một thủ pháp rất đặc biệt. Hai câu mở đầu xem như tầm thường, nhưng lại đầy cảm khái, ngọn kích gãy của hơn sáu trăm năm trước mặc dù đã chìm xuống đáy sông, đã chôn sâu trong cát, là vật của tiền triều, nay vẫn còn đây. Vật vô tri của chiến tích vẫn còn sờ sờ đó, mà người xưa, kẻ chiến bại cũng như người chiến thắng, nay đã còn đâu ?
Hai câu kết của bài thơ là 2 câu được mọi người nhắc nhở nhiều nhất. Đây là 2 câu được Đỗ Mục dùng thủ pháp giả thiết phản biện. Ai cũng biết Chu Du hỏa thiêu Xích Bích thắng được trận là nhờ vào gió đông. Đỗ Mục lại bảo rằng : Nếu gió đông không tạo điều kiện cho Chu Du thắng trận, thì Tào Tháo sẽ thắng trận và 2 nàng Kiều sẽ bị khóa xuân trong đền Đồng Tước để mua vui cho Tào Tháo trong tuổi già.
Cụ Nguyễn Du của ta cũng mượn vẻ đẹp tuyệt sắc của Nhị Kiều xứ Giang Đông để cho người đọc hình dung vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Thuý Vân bằng câu :
Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.
DIỄN NÔM :
XÍCH BÍCH
Kích gãy chìm sông sắt chửa tiêu,
Nhận ra qủa vật của tiên triều,
Đông phong chẳng giúp Chu Du thắng,
Đồng Tước khóa xuân cả nhị Kiều !
Lục bát :
Kích chìm sắt vẫn chưa tiêu,
Nhận ra vật của tiên triều bao thu.
Gió đông chẳng giúp chàng Chu,
Thì đền Đồng Tước ngàn thu khóa Kiều !
Đỗ Chiêu Đức
Bài này hay đây, thầy Đồ ạ!
Tích này được nhiều người biết.
Cảm ơn Thầy chú giải, dịch thơ.
Đọc bài thơ này tôi nhớ đến hai bài thơ tôi rất thích. Tôn phu nhân quy Thục, xướng và họa của Tôn thọ Tường và Phan văn Trị.
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Nghìn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán, trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Chu công Cẩn:
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngã trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa đồi Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh can thường nặng núi sông
Anh hởi! Tôn Quyền: Anh có biết?
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.
Tích truyện này khá phổ biến nên được nhiều người biết đến . Bài soạn của Thầy Đỗ Chiêu Đức hay và rất công phu .Xin thán phục ,, Hoành châu (Gia đình C )