Long Thành Cầm Giả Ca của Nguyễn Du
Ngày đăng: 10/11/2024 05:06:04 Chiều/ ý kiến phản hồi (0)
Long thành cầm giả ca 龍城琴者歌 là “Bài ca về người gảy đàn ở Thăng Long thành” là một bài thơ theo thể Cổ phong bằng chữ Hán do cụ Tiên Điền Nguyễn Du sáng tác trong khoảng thời gian đi sứ sang nhà Thanh từ năm 1813 đến năm 1814. Bài thơ này cùng với Kim Vân Kiều Truyện 金雲翹傳, Điếu La Thành Ca Giả 吊羅城歌者, Độc Tiểu Thanh Ký 讀小青記… được giới văn học cổ đánh giá là một thi phẩm biểu lộ rõ nét nỗi thương xót chân thành của tác giả về những kiếp người bất hạnh, nhất là những phụ nữ với kiếp sống gian truân, bị vùi dập trong xã hội thời phong kiến. Đọc những lời Tiểu Dẫn của cụ Nguyễn Du dưới đây sẽ rõ :
“Người gảy đàn đất Long Thành không rõ họ tên là gì. Nghe nói thuở nhỏ, nàng học đàn Nguyễn trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cũ người chết, kẻ bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ ôm đàn hát rong. Những bài nàng gảy đều là những khúc cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không hề được biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi tiếng hay nhất một thời. Hồi còn trẻ (1792-1793?), tôi đến kinh đô thăm anh tôi (Nguyễn Nễ), ở trọ gần Giám hồ (hồ Gương). Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có đến vài chục người. Nàng nỗi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo nói khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng uống hết ngay, tiền thưởng nhiều vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy tôi nấp trong bóng tối, không thấy rõ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má bầu, trán giô, mặt gẫy, không đẹp lắm, nhưng mước da trắng trẻo, thân hình đẫy đà, khéo trang điểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo màu hồng, quần lụa cánh chả, có vẻ phong nhã. Nàng hay uống rượu, hay nói pha trò, con mắt long lanh, không coi ai ra gì. Khi ở nhà anh tôi mỗi lần uống rượu thì nàng uống say đến nỗi nôn bừa bãi, nằm lăn ra đất, các bạn có chê trách cũng không lấy làm điều. Sau đó vài năm, tôi rời nhà về Nam (Thái Bình), mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay (1813) tôi lại phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên. Chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy một chị gầy gò, vẻ tiều tuỵ, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im lặng ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đã quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi thì chính là người trước kia đã gặp. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế! Tôi bồi hồi, không yên, ngửng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay. Người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh nhục buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sau, để ghi lại mối cảm hứng”.(Theo bản dịch Nôm của https://www.thivien.net/).
龍城琴者歌 LONG THÀNH CẦM GIẢ CA
龍城佳人, Long thành giai nhân,
不記名字。 Bất ký danh tự.
獨善絃琴, Độc thiện huyền cầm,
舉城之人以琴名。 Cử thành chi nhân dĩ CẦM danh.
學得先朝宮中供奉曲, Học đắc tiên triều cung trung Cung Phụng khúc,
自是天上人間第一聲。 Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
余在少年曾一見, Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến,
監湖湖邊夜開宴。 Giám Hồ hồ biên dạ khai yến.
此時三七正芳年, Thử thì tam thất chính phương niên,
春風掩映桃花面。 Xuân phong yễm ánh đào hoa diện.
酡顏憨態最宜人, Đà nhan hám thái tối nghi nhân,
歷亂五聲隨手變。 Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến.
緩如涼風度松林, Hoãn như lương phong độ tùng lâm,
清如隻鶴鳴在陰。 Thanh như chích hạc minh tại âm.
烈如荐福碑頭碎霹靋, Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,
哀如莊舄病中為越吟。 Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm.
聽者靡靡不知倦, Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện,
盡是中和大內音。 Tận thị Trung Hoà Đại Nội âm.
西山諸臣滿座盡傾倒, Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo,
徹夜追歡不知曉。 Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu.
左拋右擲爭纏頭, Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
泥土金錢殊草草。 Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
豪華意氣凌公侯, Hào hoa ý khí lăng công hầu,
五陵年少不足道。 Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo.
并將三十六宮春, Tính tương tam thập lục cung xuân,
換取長安無賈寶。 Hoán thủ Trường An vô giá bảo.
此夕回頭二十年, Thử tịch hồi đầu nhị thập niên,
西山敗後余南遷。 Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên.
咫尺龍城不復見, Chỉ xích Long Thành bất phục kiến,
何況城中歌舞莚。 Hà huống thành trung ca vũ diên.
宣撫使君為余重買笑, Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,
席中歌妓皆年少。 Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
席末一人髮半華, Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
顏醜神枯形略小。 Nhan xú thần khô hình lược tiểu.
狼藉殘眉不飾粧, Lang tạ tàn my bất sức trang,
誰知便是當年城中第一調。Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu.
舊曲新聲暗淚垂, Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ,
耳中靜聽心中悲。 Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.
猛然憶起二十年前事, Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,
監湖湖邊曾見之。 Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi.
城郭推移人事改, Thành quách thôi di nhân sự cải,
幾度桑田變蒼海。 Kỷ độ tang điền biến thương hải.
西山基業一旦盡消亡, Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong,
歌舞空留一人在。 Ca vũ không lưu nhất nhân tại.
瞬息百年曾幾時, Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì,
傷心往事淚沾衣。 Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
南河歸來頭盡白, Nam Hà quy lai đầu tận bạch,
怪底佳人顏色衰。 Quái để giai nhân nhan sắc suy.
雙眼瞪瞪空想像, Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng,
可憐對面不相知。 Khả lân đối diện bất tương tri.
阮攸 Nguyễn Du
* Chú thích :
– LONG THÀNH CẦM GIẢ CA 龍城琴者歌 : là “BÀI CA VỀ NGƯỜI ĐÁNH ĐÀN Ở THÀNH THĂNG LONG”; cũng có thể hiểu là “BÀI CA VỀ NÀNG KỸ NỮ ĐẤT LONG THÀNH”.
– ĐỘC THIỆN 獨善 : ĐỘC là Độc nhất; THIỆN là Thiện nghệ. Nên Độc Thiện có nghĩa là “Đặc biệt giỏi về một bộ môn, một phương diên hay một… cái gì đó !”.
– CỬ THÀNH 舉城 : CỬ 舉 khi là Tính từ thì có nghĩa là Tất Cả, như CỬ TỌA là “Tất cả những người (có mặt) đang ngồi ở… đâu đó. Nên Cử Thành là CẢ THÀNH.
– TIÊN TRIỀU 先朝 : Triều đại trước chỉ Triều Lê, vì trước mắt là Triều Tây Sơn.
– 監湖 GIÁM HỒ Còn gọi là hồ Văn hay hồ Giám ở phía trước cổng vào Văn Miếu, Hà Nội.
– ĐÀ NHAN HÁM THÁI 酡顏憨態 : Đà Nhan là vẻ mặt ửng hồng vì rượu, Hám Thái là vẻ ngây thơ trong sáng. Nên ĐÀ NHAN HÁM THÁI là “Cái dáng vẻ trong sáng ngây thơ dễ thương của người đẹp khi gương mặt ửng hồng vì có chút hơi rượu vào”.
– LỊCH LOẠN 歷亂 : là Hỗn tạp, lộn xộn, tá lả.
– TIẾN PHÚC BI 薦福碑 : là Bia đá ở chùa Tiến Phúc, theo tích sau đây :
Đại văn Hào đời Tống là Phạm Trọng Yêm 范仲淹 khi làm Quận Thú ở Nhiêu Châu (thuộc Quận Ba Dương tỉnh Giang Tây hiện nay). Một hôm có thư sinh Trương Hạo 張鎬 lưu lạc giang hồ đến xin cứu giúp. Phạm thương vì người tài hoa mà chửa gặp thời, định giúp đỡ, nhưng Phạm là một ông quan thanh liêm, không lấy đâu ra tiền để giúp. Cuối cùng ông bèn đến nhờ trụ trì chùa Tiến Phúc, xin cho thư sinh kia được in một số bản văn ở thạch bia phía sau chùa bán mà độ nhật để về quê. Đây là bản văn khắc trên đá với bút pháp của Âu Dương Tuân 歐陽詢, là một trong Sơ Đường Tứ Đại Thư Pháp Gia 初唐四大書法家, nên rất được mọi người ưa chuộng.
Nhà sư Trụ trì vì nể mặt Phạm Trong Yêm mà chấp thuận, còn hướng dẫn cho cách để in ấn. Phạm lại phải giúp thư sinh mua sắm giấy mực, bàn chải… định sáng ngày sẽ khởi công. Nào ngờ đêm hôm đó trời mưa to gió lớn, sấm sét đánh bể tan bia đá kia luôn. Thế là khỏi in ấn gì hết cả !
– TRANG TÍCH 莊舄 : Theo thivien.net chú thích :
Trang Tích là người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở Vương hỏi mọi người: “Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở, được phú quý rồi, thì còn nhớ nước Việt nữa không?” Viên thị ngự đáp: “Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra trong lúc đau ốm. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng nước Sở”. Sở Vương sai người lén nghe thì thấy Trang Tích nói tiếng Việt.
– TRUNG HÒA 中和 : Tên của một cung điện thời LÊ Triều ở Thăng Long.
– TRIỆT DẠ 徹夜 : là Thâu đêm, Suốt đêm. Triệt Dạ Truy Hoan 徹夜追歡 Suốt đêm theo đuổi niềm vui. Là “Tìm vui thâu đêm… suốt sáng”.
– TẢ PHAO HỮU TRỊCH 左拋右擲 : Bên trái ném, bên phải quăng; có nghĩa như “Bên nầy cho bên kia biếu” vậy.
– TRIỀN ĐẦU 纏頭 : là “Quấn đầu”; là “Vật thưởng hay tiền thưởng”. Theo thivien.net : Lấy khăn quấn đầu làm vật tặng thưởng. Đời Đường trong yến tiệc vua đãi, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu như vật tặng thưởng. Về sau các món tiền thưởng cho người ca múa được gọi là triền đầu.
– NGŨ LĂNG NIÊN THIẾU 五陵年少 : là “Các chàng trai trẻ xứ Ngũ Lăng”; chỉ các chàng công tử ăn chơi con nhà quyền qúy. Theo thivien.net : Nơi có năm lăng tẩm của đế vương đời Hán, nơi này dân hào hoa phú quý thường ở. Bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị có câu: “Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu”.
– TAM THẬP LỤC CUNG 三十六宮 : là Ba mươi sáu cung trong các triều đình vua chúa ngày xưa. Chỉ chung “Tất cả các hậu cung có nhiều cung nữ xinh đẹp”.
– TRƯỜNG AN hay TRÀNG AN 長安 : Kinh đô của các triều đại từ đời Chu đến đời Đường, là thành phố Tây An của hiện nay. Ở đây mượn để chỉ đất Thăng Long.
– TUYÊN PHỦ SỨ QUÂN 宣撫使君 : Chỉ quan trấn thủ Bắc Thành, vào lúc Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc mùa xuân 1813.
– NHAN XÚ THẦN KHÔ 顏醜神枯 : là Dung nhan xấu xí, thần thái khô cằn.
– LANG TẠ TÀN MY 狼藉殘眉 : là Mặt mày nhếch nhác.
– MÃNH NHIÊN ỨC KHỞI 猛然憶起 : Bỗng nhiên sực nhớ…; Chợt nhớ ra…
– TANG ĐIỀN BIẾN THƯƠNG HẢI 桑田變蒼海 : Ruộng dâu biến thành biển xanh. Có điển tích như sau :
Theo Thái Bình Quảng Ký, quyển 60, Thần Tiên Truyện của Cát Hồng đời Tấn : Vào đời Hán Hiếu Hoàn Đế có hai tiên nhân, một người là Vương Viễn, tự là Phương Bình; một người là Ma Cô Tiên cô. Trong buổi tiệc gặp mặt, Ma Cô nói với Vương Viễn rằng :”Kể từ ngày đắc đạo và nhận lấy thiên mệnh tuần tra đến nay, cũng đã ba lần thấy Đông hải biến thành ruộng dâu. Mới vừa đây, khi tuần tra đảo Bồng Lai, thấy nước biển ở đây đã cạn đi một nửa, chắc biển lại muốn biến thành đất liền nữa rồi !”. Vương Phương Bình Thở dài mà rằng :”Đúng vậy, các thánh nhân đều bảo, nước biển đang cạn dần, chắc không bao lâu nữa nơi ấy sẽ là nơi đầy rẫy cả bụi hồng trần !”. Tiệc tan trong một ngày, nhưng ở thế gian đã là cả ngàn năm rồi, mới hay, không gian khác nhau thì thời gian cũng sẽ khác nhau. Trong mắt thần tiên chỉ một thoáng, nhưng ở thế gian thì bãi bể đã hoá nương dâu rồi.
– THUẤN TỨC 瞬息 : là Trong nháy mắt, là Chớp mắt.
– NAM HÀ 南河 : là Phía Nam sông (Gianh). Do câu “Trịnh Nguyễn phân tranh, Sông Gianh di hận”. Thời Trịnh Nguyễn lấy sông Gianh làm ranh giới; Nên người sống ở phía nam của sông Gianh, gọi là người NAM HÀ. Ngược lại, người sống ớ phía bắc sông Gianh thì gọi là BẮC HÀ.
– QUÁI ĐỂ 怪底 : QUÁI động từ có nghĩa là Trách, trách cứ. Nên Quái Để là “Làm sao có thể trách được…” là “chả trách…”.
– KHẢ LIÊN hay KHẢ LÂN 可憐 : là Thương thay, Khá thương thay, Tội nghiệp thay…
* Nghĩa bài thơ :
BÀI CA VỀ NGƯỜI ĐÁNH ĐÀN Ở THÀNH THĂNG LONG
– Người đẹp ở thành Thăng Long,
– Không nhớ rõ tên chi.
– Chỉ riêng giỏi về huyền cầm, nên…
– Người của cả thành lấy chữ CẦM làm tên.
– Nàng học được Khúc Cung Phụng trong cung của triều đại trước. nên…
– Đương nhiên trở thành khúc đàn hạng nhất ở trên đời dưới thế nầy.
– Ta lúc thiếu niên đã từng gặp gỡ nàng.
– Trong một buổi tiệc mở ra trong một đêm bên bờ Giám Hồ.
– Lúc đó nàng đang độ hoa niên chỉ khoảng ba bảy hai mươi mốt tuổi mà thôi.
– Gió xuân đã ve vẫy trên khuôn mặt đẹp như hoa đào của nàng.
– Nhất là khi có chút rượu vào, nét mặt càng ửng hồng ngây thơ trong sáng hơn rất dễ làm say đắm lòng ngưởi.
– Tiếng ngũ âm xôn xao loạn lên biến hóa theo năm ngón tay của nàng.
– Tiếng khoan thai như làn gió mát thổi qua rừng thông vi vút.
– Tiếng thanh thoát như con hạt lẻ loi kêu ở chốn thâm u.
– Tiếng chát chúa rầm rập như sét đánh tan bia chùa Tiến Phúc.
– Tiếng trầm buồn như Trang Tích trong cơn bệnh rên rỉ bằng tiếng Việt thi.
– Khiến cho người nghe cứ mê mãi mà quên đi mõi mệt.
– Đó đều là do âm nhạc Trung Hòa Cung trong đại nội (của triều đại trước).
– Tất cả quan viên thần tử của Tây Sơn đều ngã nghiêng mê mẫn.
– Suốt đêm theo đuổi niềm vui mà quên khuấy đi trời đã sáng.
– Bên trái ném, bên phải vứt tranh nhau mà cho tiền thưởng.
– Kim tiền nào phải đâu đất cát mà bị xem như cỏ rác sơ sài.
– Cái tính khí hào hoa còn hơn cả bậc công hầu. Cho đến…
– Những chàng thiếu niên công tử của đất Ngũ Lăng thì khỏi phải nói…
– Gom góp hết mùa xuân của ba mươi sáu cung trong cung vua lại, mới…
– Đánh đổi được một nàng vô giá bảo của xứ Trường An nầy !
– Quay đầu nhìn lại cái đêm xưa ấy thì đã hai mươi năm qua rồi !
– Sau khi nhà Tây Sơn bại binh thì ta cũng thuyên chuyển về phía Nam.
– Dù có trong gang tấc thì cũng không còn trông thấy thành Thăng Long nữa.
– Nói chi đến yến tiệc ca múa ở trong thành !
– Tuyên Phủ Sứ Quân vì ta (sắp đi sứ) muốn mua vui cho ta, mà đãi tiệc…
– Trong tiệc, các cô ca kỹ đều còn rất trẻ.
– Cuối tiệc, một nàng đầu tóc đã hoa râm.
– Vẻ mặt xấu xí với thân hình nhỏ thó.
– Mặt tàn mày tạ nhếch nhác không có trang điểm gì cả.
– Ai có ngờ đâu đó chính là người gảy đàn hạng nhất ở trong thành năm xưa.
– Nhạc khúc cũ nhưng tiếng đàn mới khiến cho người ta phải âm thầm rơi lệ.
– Tai yên lặng lắng nghe mà trong lòng chẳng khỏi bi thương.
– Chợt bỗng nhớ lại chuyện của hồi hai mươi năm trước.
– Bên bờ hồ của Giám Hồ ta đã từng gặp gỡ nhau.
– Thành quách đã đổi vời nên nhân sự cũng đổi thay.
– Mấy độ tang thương khi bãi bể hóa nương dâu.
– Trong một ngày nào đó cơ nghiệp của nhà Tây Sơn đã toàn bộ diệt vong.
– Buổi tiệc ca vũ năm xưa chỉ còn lại mỗi một người ở đây mà thôi.
– Chuyện trăm năm thắm thoát có được mấy khi đâu !
– Đau lòng cho chuyện cũ mà lệ nhỏ ướt cả áo rồi.
– Từ Nam Hà trở về đây thì đầu của ta cũng đã bạc hết rồi.
– Chả trách gì giai nhân nhan sắc cũng đã suy tàn…
– Đôi mắt đăm đắm nhìn nhau mà cố tưởng tượng (lại hình bóng của năm xưa).
– Khá thương thay, mặt đối mặt mà chẳng nhận biết ra nhau !!!
* Diễn Nôm : (Theo sát ý và câu ngắn dài của tác giả)
BÀI CA VỀ NÀNG KỸ NỮ ĐẤT LONG THÀNH
Người đẹp Long Thành,
Chẳng rõ họ tên.
Riêng giỏi đàn cầm,
Cả thành gọi Nàng CẦM thành danh.
Học được khúc Cung Phụng từ cung đình trước,
Nên chi trên đời dưới thế chẳng ai tranh !
Ta từ niên thiếu đã gặp nàng,
Bên bến Giám hồ tiệc rộn ràng.
Ba bảy niên hoa đương xuân sắc,
Mặt tựa hoa đào mới điểm trang.
Rượu ửng thơ ngây dễ cảm người,
Tay tiên năm ngón lướt không thôi.
Chậm như gió mát rừng thông độ,
Trong tựa hạc kêu phía góc trời.
Mạnh như sấm nổ vang rền bia Tiến Phúc,
Buồn tựa Việt ngâm Trang Tích bệnh xứ người.
Người nghe ngơ ngẩn quên mê mõi,
Tiếng nhạc Trung Hòa cung đại nội.
Quần thần Tây Sơn ai nấy thảy ngã nghiêng,
Thâu đêm vui thú quên sáng tối.
Tay đưa tay nhét tranh thưởng ban,
Kim tiền vung vải chẳng ai màng.
Sang cả công hầu quen phóng đãng,
Ngũ Lăng niên thiếu cũng tranh sang.
Băm sáu cung xuân hun đúc lại…
nên vô giá bảo xứ Trường an !
Quay đầu đêm xưa hai mươi năm,
Tây Sơn suy bại ta xuôi Nam.
Gang tấc Long thành không dịp đến,
Huống hồ diên yến với ca sang !
Tuyên Phủ Sứ quân vì ta lại mua vui,
Trong tiệc ca nhi đẹp lắm người.
Cuối tiệc một nàng râm tóc rối,
Khô cằn hình vóc khép nép ngồi.
Nhếch nhác mặt mày chẳng điểm trang,
Ai hay đó chính năm xưa đệ nhất đàn !
Khúc cũ đàn mới lệ chứa chan,
Tai lắng lòng nghe dạ bàng hoàng.
Bỗng chợt nhớ về đêm hai mươi năm trước,
Bên Giám hồ xưa đã gặp nàng.
Thành quách đổi thay người cũng đổi,
Bể dâu mấy độ lắm thương tang.
Cơ nghiêp Tây Sơn một sớm đã tan hoang,
Chỉ sót lại mỗi nàng ca kỹ.
Trăm năm chớp mắt mấy lần đâu,
Chuyện cũ thương tâm lệ ướt bâu.
Trở lại Nam Hà đầu đã bạc,
Trách chi người đẹp sắc phai màu.
Bốn mắt nhìn nhau chừng đăm đắm,
Thương thay đối diện chẳng quen nhau !
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)
Bài dịch hay nhất, bản diễn Nôm xuất sắc nhất của LONG THÀNH CẦM GIẢ CA, theo tôi là Bản dịch bằng thể thơ Song thất Lục bát của Học Canh trên thivien.net. Xứng đáng được đem vào sách giáo khoa chính quy cho học sinh học tập và đối chiếu với nguyên tác của cụ Nguyễn Du.
Đỗ Chiêu Đức