Phiếm về TRI ÂM, TRI KỶ.
Ngày đăng: 26/10/2024 10:43:28 Sáng/ ý kiến phản hồi (0)
Có rất nhiều người thắc mắc và hỏi tôi :”Hiểu và phân biệt như thế nào cho đúng về hai từ TRI ÂM và TRI KỶ ?”. Sau khi tra cứu và hỏi “Ông Google”, xin được thưa rằng :”TRI ÂM là người đồng điệu, có chung một thị hiếu và sở thích với ta và cùng cảm thông nhau một cách sâu sắc về thị hiếu đó . Còn TRI KỶ là người bạn thân thiết hiểu ta một cách thấu đáo triệt đễ đến có thể đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau”. Mời xem giải thích cụ thể và minh chứng qua các câu truyện trong lịch sử và văn học sau đây :
TRI ÂM 知音 : TRI là Hiểu, là Biết; ÂM là Âm luật, Âm nhạc. Nên TRI ÂM là người hiểu biết về âm luật âm nhạc. Bạn TRI ÂM là người bạn có cùng thị hiếu với nhau về âm nhạc, thông qua âm nhạc có thể hiểu rõ được lòng dạ của nhau một cách sâu sắc, như câu truyện của Du Bá Nha và Chung Tử Kỳ sau đây :
Theo Chiến Quốc Liệt Ngự Khấu Trứ 战国列御寇著 ghi về chuyện Bá Nha Tử Kỳ như sau :
Du Bá Nha 俞伯牙 phụng mệnh vua Tấn đi sứ sang nước Sở. Đêm rằm tháng tám, thuyền vừa vào đến Hán Dương, gặp lúc mưa to gió lớn, nên ghé vào một mé núi nhỏ để tránh gió. Đêm xuống, gió lặng mây tan, vầng trăng rằm sáng vành vạnh trên sông nước, cảnh sắc thật hữu tình. Bá Nha bèn lấy cây dao cầm ra nắn nót phím dây và đàn một khúc. Đang lúc thả hồn vào cung đàn phím nhạc, mơ hồ như thấy có bóng người trên bến nên phân tâm, tay bấm mạnh vào phím đàn đánh “chát” một tiếng, đàn đứt mất một dây và tiếng đàn im bặt. Bỗng nghe tiếng người trên bờ nói vọng xuống rằng :”Xin tiên sinh chớ ngại, tôi là người đốn củi về muộn, đi đến đây nghe được tiếng đàn tuyệt diệu của tiên sinh, nên nán lại chưa nở rời đi”.
Nương theo bóng trăng, Bá Nha nhìn kỹ người trên bến, quả nhiên là một tiều phu với gánh củi còn để một bên, thầm nghĩ : Chỉ là một người đốn củi, làm sao nghe hiểu được tiếng đàn của ta chứ ?. Bèn cất tiếng hỏi rằng :”Các hạ nghe hiểu tiếng đàn của ta, thì có thể nói thử xem khi nảy ta đang đàn khúc gì không ?”. Người tiều phu bèn đáp rằng :”Thưa tiên sinh, lúc nảy ông đang đàn khúc Khổng Tử tán thán đệ tử Nhan Hồi. Rất tiếc là tiên sinh mới đàn đến câu thứ tư thì dây đàn bị đứt “.
Nghe người tiều phu đối đáp trôi chảy, Bá Nha rất ngạc nhiên và cũng vô cùng mừng rỡ. Bèn mời tiều phu lên thuyền để đàm đạo. Người tiều phu vừa trông thấy cây đàn của Bá Nha, bèn khen rằng :”Đây là cây dao cầm, tương truyền là của vua Phục Hi chế tạo ra”. Bèn kể lại lai lịch, quá trình chế tạo và xuất xứ của cây đàn. Bá Nha nghe xong càng khâm phục cho kiến thức của người tiều phu hơn. Đoạn mời người tiều phu nghe thêm vài khúc đàn nữa. Khi Bá Nha cất cao tiếng đàn lên thật hùng tráng, thì người tiều phu khen :”Vòi vọi thay núi cao hùng vĩ, chí tại cao sơn”. Khi Bá Nha hạ tiếng đàn xuống cho thanh thoát trôi chảy, thì tiều phu lại cất tiếng khen rằng :”Cuồn cuộn thay như nước trường giang, ý tại lưu thủy “.
Bá Nha nghe xong rất lấy làm vui dạ, trước đây chưa từng có người hiểu được tâm sự của ông gởi gấm qua tiếng đàn, mà trước mắt, người tiều phu nầy lại làm được việc đó. Không ngờ ở chốn thâm sơn cùng cốc nầy lại có được một TRI ÂM (người hiểu được tiếng lòng của người khác qua âm nhạc) mà bấy lâu nay ông cố tìm vẫn không gặp được. Bèn đứng dậy thi lễ, rót chén rượu mời và cùng xưng tên họ với nhau. Thì ra người tiều phu tên là Chung Tử Kỳ 鍾子期, làm nghề đốn củi độ nhựt. Hai người càng đàm đạo càng hợp ý hơn. Cuối cùng dưới vầng trăng thu sáng vằng vặc họ đã cùng nhau kết nghĩa đệ huynh. Bá Nha lớn hơn nên làm anh, hỏi Tử Kỳ rằng :”Với tài năng và học thức của hiền đệ sao không ra kiếm chút công danh mà lại cam nghề đốn củi ?” Tử Kỳ cho biết là vì mình còn phải phụng dưỡng cha già, nên mới ẩn nhẫn đợi thời. Vì công vụ chưa xong, nên Bá Nha không có thời gian lên bái kiến cha của Tử Kỳ. Trước khi chia tay, hai người bạn cùng hẹn nhau rằm Trung Thu sang năm lại gặp nhau trên bến sông nầy.
Trung Thu năm sau, Bá Nha y hẹn, ghé thuyền lại bến Hán Dương chờ bạn. Nhưng chờ hoài chờ mãi vẫn không thấy tăm hơi, bèn đem đàn ra mà đàn một bản, ý muốn kêu gọi bạn tri âm, nhưng tri âm vẫn bằng bặt bóng hình. Sáng hôm sau, Bá Nha lên bờ, lần mò vào thôn để hỏi thăm về tin tức của Tử Kỳ. Một ông già nghe hỏi, bèn khóc òa lên, cho biết mình chính là cha của Tử Kỳ đây. Sau Trung Thu năm rồi, Tử Kỳ đã nhuốm bệnh và qua đời, trước phút lâm chung, còn trối lại là hãy chôn mình ở bờ sông để Trung Thu năm tới còn nghe được tiếng đàn của Bá Nha như đã ước hẹn.
Nghe lời nói của Chung Lão, Bá Nha đau buồn vô hạn, tìm đến bên mộ của Tử Kỳ, trịnh trọng đặt cây dao cầm trước mộ, rồi ngồi xếp bằng mà đàn lại khúc ” Cao sơn lưu thủy” năm xưa. Đàn xong bèn gạt đứt hết dây đàn, đứng dậy nâng cây dao cầm lên cao đập mạnh xuống tảng đá xanh trước mộ. Cây đàn “bùng” lên một tiếng bể tan tành ! Ba Nha bèn khóc mà ngâm rằng :
摔碎瑶琴鳳尾寒, Suất toái dao cầm phụng vĩ hàn,
子期不在向誰彈? Tử Kỳ bất tại hướng thùy đàn ?
春風满面皆朋友, Xuân phong mãn diện giai bằng hữu,
欲覓知音難上難。 Dục mịch TRI ÂM nan thượng nan !
Có nghĩa :
Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đàn vắng Tử Kỳ đàn với ai ?
Mát mặt gió xuân đều bạn hữu,
TRI ÂM đâu dễ gặp lần hai !
Quả là “Dục mịch tri âm nan thượng nan”: Muốn tìm được một người tri âm là “khó trên khó”. Có nghĩa là Khó vô cùng ! Hiểu nhau đã khó, hiểu cả tiếng đàn của nhau càng khó hơn nữa. Nên sau nầy dùng rộng ra, TRI ÂM là chỉ những người bạn rất thân thiết, hiểu rõ cả ruột gan lòng dạ của nhau thông qua một sở thích hay thị hiếu nào đó. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du còn dùng để chỉ những cặp đôi yêu nhau nữa, như lời của Thúy Kiều nói với Kim Trọng :
Nàng rằng : Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với TRI ÂM bấy chầy !
Còn trong truyện Nôm khuyết danh TRINH THỬ cũng có câu :
Bá Nha đã gặp Tử Kỳ,
Bảo sơn ai nở trở về tay không ?!
Và trong Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :
知音說與知音聽, Tri âm thuyết dữ tri âm thính,
不是知音莫與彈. Bất thị tri âm mạc dữ đàn.
Có nghĩa :
Là TRI ÂM với nhau mới nói cho nhau nghe,
Không phải là TRI ÂM với nhau thì đừng có đàn (cho nhau nghe, vì đối phương có biết nghe đâu mà đàn chi cho uổng công !).
Tiến thêm một bước, sâu sắc hơn, thắm thiết hơn TRI ÂM là TRI KỶ 知己. KỶ là TỰ KỶ 自己, là chính bản thân mình. Người mà thông hiểu được chính bản thân mình như là mình, thì người đó chính là TRI KỶ của mình đó. Ta hãy lượt qua các câu truyện sau đây thì sẽ rõ…
Đôi bạn TRI KỶ đầu tiên hiểu rõ nhau nhất là Quản Trọng 管仲 và Bào Thúc Nha 鮑叔牙 thời Chiến Quốc, theo sách Sử Ký ghi lại như sau :
Quản Trọng tên là Di Ngô, hiệu là Kính Trọng, người thôn Quản Cốc huyện Dĩnh Thượng. Ông là Tể Tướng nổi tiếng của nước Tề, phò tá và giúp Tề Hoàn Công trở thành một trong Ngũ Bá thời Chiến Quốc. Bào Thúc Nha cũng là một Đại Phu của nước Tề, là bạn tri kỷ của Quản Trọng. Truyện Kể…
Thuở nhỏ, Bào Thúc Nha và Quản Trọng là hai người bạn thân. Bào Thúc Nha rất hiểu về tài hoa của bạn mình. Quản Trọng nhà nghèo nhưng luôn luôn lấn lướt Bào Thúc Nha về mọi mặt, nhưng Bào lại luôn luôn đối sử tốt với bạn mà không một tiếng oán than trách móc.
Lớn lên, hai người cùng làm quan cho nước Tề. Quản Trọng theo phò Công Tử Củ, còn Bào Thúc Nha theo phò người em là Công Tử Tiểu Bạch.
Năm 686 trước Công Nguyên, Tề Tương Công mất, cháu là Công Tôn Vô Tri soán ngôi. Mùa xuân năm 685 trước CN, Đại Phu nước Tề là Ung Lẫm giết Công Tôn Vô Tri. Lúc đó Công Tử Củ đang ở nước Lổ, còn Công Tử Tiểu Bạch đang ở nước Lữ. Triều thần quyết định đón hai Công Tử về nước, ai về trước sẽ được nối ngôi.
Nước Lổ phái người đưa Công Tử Củ về nước; còn nước Lữ thì phái người đưa Công Tử Tiểu Bạch về nước. Quản Trọng sợ Công Tử Tiểu Bạch về trước, nên phi ngựa rượt theo bắn một mũi tên, Công Tử Tiểu Bạch giả vờ trúng tên té xuống xe ngựa. Sau đó cùng Bào Thúc Nha rẻ đường tắt về nước trước, lên ngôi nước Tề, chính là Tề Hoàn Công đó.
Lổ Trang Công nghe Công Tử Tiểu Bạch đã lên ngôi nước Tề, vô cùng tức giận, cử binh sang đánh nước Tề. Tề đã có chuẩn bị sẵn nên binh Lổ đại bại mà về. Dưới áp lực của nước Tề, Lổ bắt buộc phải giết Công Tử Củ và bắt Quản Trọng trả về cho nước Tề xử tội.
Tề Hoàn Công sau khi lên ngôi, bèn triệu Bào Thúc Nha đến để phong làm Tể Tướng. Nhưng Bào lại từ chối mà còn tiến cử cho người đang ở trong tù là Quản Trọng làm Tể Tướng vì cho rằng Quản Trọng giỏi hơn mình rất nhiều. Trước đây bắn Tề Hoàn Công là vì đang theo phò Công Tử Củ, chỉ là ai vì chúa nấy mà thôi. Tề Hoàn Công nghe theo lời Bào Thúc Nha phong Quản Trọng là Tể Tướng. Nên sau nầy nhờ các sách lược của Quản Trọng mà Tề Hoàn Công mới xưng bá chư hầu.
Về phần Quản Trọng, ông luôn nói với người khác rằng :” Lúc nhỏ nhà nghèo, thường đi buôn với Bào Thúc Nha, tôi ra vốn ít, nhưng chia lời nhiều. Thúc Nha không cho là tôi tham, vì biết tôi nghèo. Tôi bày cách làm ăn cho Thúc Nha bị thất bại. Thúc Nha không cho là tôi ngu xuẩn, mà biết là làm ăn phải có lúc vầy lúc khác. Tôi ra làm quan ba lần đều bị đuổi về ba lần, Thúc Nha không cho là tôi bất tài, mà biết là tôi chưa gặp được thời cơ. Tôi đi đánh trận ba lần, ba lần đều thua chạy trước, Thúc Nha không cho là tôi nhát gan, vì biết tôi còn phải phụng dưỡng mẹ già. Công Tử Củ thất bại bị giết, tôi bị bắt mà không dám hi sinh vì chủ, Thúc Nha không cho tôi là kẻ vô sỉ, vì biết rằng tôi còn đợi dịp để thi thố tài năng. Ôi, Sanh ra tôi là cha mẹ tôi, nhưng hiểu được tôi thì chỉ có Bào Thúc Nha mà thôi !”(Câu nói nầy của Quản Trọng được mọi người tán thưởng và còn truyền tụng mãi cho đến hiện nay).
Khi Quản Trọng sắp chết. Tề Hoàn Công hỏi : Bào Thúc Nha có thể thay thế làm Tể Tướng không ? Quản Trọng đáp : Không được ! Bào Thúc Nha là người thiện ác phân minh, không thể bao dung cho kẻ xấu được. Nếu giao cho quyền bính trong tay, chẳng những có hại cho chúa công mà còn có hại cho chính bản thân Thúc Nha nữa ! Bào Thúc Nha nghe biết chuyện nầy, chẳng những không trách Quản Trọng không tiến cử mình, mà còn rất cảm kích vì biết bạn rất hiểu mình nên không muốn hại mình phải mang họa vào thân.
Quả là hai người bạn TRI KỶ với nhau : Người nầy hiểu rõ người kia và người kia cũng rất hiểu rõ người nầy một cách sâu sắc. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã ca ngợi tài của Quản Tử (Quản Trọng) như sau :
Lượng gã Bạch sinh nào có mấy,
Tài người Quản Tử có đâu nhiều !
Sau QUẢN BÀO CHI GIAO 管鲍之交, là sự kết giao giữa Quản Trọng và Bào Thúc Nha. Người ta cũng thường hay nhắc đến tình bạn kết giao sinh tử giữa TẢ BÁ ĐÀO 左伯桃 và DƯƠNG GIỐC AI 羊角哀 như sau :
Theo “Quyển thứ 7 của Dụ Thế Minh Ngôn 喻世明言•第七卷” truyện “Dương Giốc Ai xả mệnh toàn giao 羊角哀捨命全交” của Phùng Mộng Long 馮夢龍 đời Minh.
Truyện kể…
Vua nước Sở là Sở Nguyên Vương 楚元王 rất sùng Nho trọng Đạo, chiêu hiền đãi sĩ. Người trong thiên hạ nghe tiếng tìm đến rất đông.
Thuở ấy, tại núi Tích Thạch xứ Tây Khương có một hiền sĩ họ Tả 左 tên Bá Đào 伯桃, cha mẹ đều mất sớm, nhưng có chí học hành, sớm trở thành người có tài an bang tế thế. Nghe tiếng Sở Vương cầu hiền bèn khăn gói từ biệt hương thân lên đường tìm đến nước Sở.
Một hôm vừa đến đất Ung Châu khi trời đã vào đông, gió bấc mưa phùng trời mây u ám gió lạnh căm căm. Tả Bá Đào đội mưa đi suốt một ngày, khi thấy trời đã hoàng hôn, định tìm nơi nghỉ trọ qua đêm. Nhìn ra phía trước mặt trong rừng trúc xa xa thấy có ánh đèn nhấp nháy, bèn lần mò tìm đến căn nhà cỏ sau hàng rào tre xiêu vẹo. Một người thanh niên cường tráng, mày thanh mắt sáng, ra mở cửa mời vào. Sau khi hàn huyên tâm sự thì biết người thanh niên đó họ Dương 羊 tên Giốc Ai 角哀 cũng mồ côi từ nhỏ. Thấy bàn tủ trong nhà chứa toàn là sách, cả trên giường ngủ cũng đều có sách vở ngổn ngang. Đồng thanh tương ứng hai người cùng đàm đạo trao đổi nhau càng thấy tâm đầu ý hợp. Vốn định chỉ ở trọ qua đêm không ngờ nấn ná đến ba ngày. Vì mến tài nhau nên cùng nhau kết nghĩa kim bằng. Tả lớn hơn Dương 5 tuổi nên làm anh, Dương kính Tả như là một huynh trưởng, Đoạn 2 anh em rủ nhau cùng lên kinh đô nước Sở để tìm chữ công danh.
Dọc đường, đang lúc trọng đông, gặp lúc thời tiết khắc nghiệt, mưa tuyết bảo bùng mà phải băng rừng vượt núi. Tả Bá Đào càng ngày càng kiệt sức, tự biết sức mình khó lòng vượt qua được đoạn đường dài gian nan hiễm trở nầy, hơn nữa cũng tự biết rằng tài học vấn của mình không sao bằng được Dương Giốc Ai và điều quan trọng nhất là lương thực mang theo chỉ còn đủ dùng cho một người khỏe mạnh cố gắng vượt qua đoạn đường hiễm trở lạnh lẽo nầy, nếu nấn ná cho cả 2 người thì có nguy cơ cả 2 đều phải chết lạnh chết đói trong vùng rừng núi mịt mùng gió tuyết nầy. Nên, Tả quyết định hi sinh bản thân mình mà thành toàn cho người em kết nghĩa hoàn thành tâm nguyện thi thố tài năng để cầu chút công danh.
Thừa lúc Dương đi tìm củi sưởi ấm trong cơn bão tuyết, Tả bèn cởi hết quần áo ra, nhường áo để Dương mặc thêm cho đủ ấm. Khi Dương về đến thì Tả mới thều thào nói cho người em kết nghĩa biết Ý định của mình và khuyên Dương hãy tranh thủ lên đường, khi nào cầu được công danh hãy trở lại an táng cho mình, nói xong thì tắt thở. Dương đành phải gạt lệ lên đường. Người đời sau có thơ khen Tả Bá Đào như sau :
寒來雪三尺, Hàn lai tuyết tam xích,
人去途千里。 Nhân khứ đồ thiên lý.
長途苦雪寒, Trường đồ khổ tuyết hàn,
何況囊無米? Hà huống nang vô mễ ?
並糧一人生, Tịnh lương nhất nhân sinh,
同行兩人死; Đồng hành lưỡng nhân tử.
兩死誠何益? Lưỡng tử thành hà ích ?
一生尚有恃。 Nhất sinh thượng hữu thị.
賢哉左伯桃! Hiền tai Tả Bá Đào !
隕命成人美。 Vẫn mệnh thành nhân mỹ.
Có nghĩa :
Trời đông ba thước tuyết rơi,
Người đi ngàn dặm ngược xuôi chập chùng.
Đường dài trước mặt mông lung,
Trong nang gạo chỉ đủ dùng một thôi.
Huống chi mình đến hai người,
Cùng đi thì chết cả đôi ích gì ?
Một người sống còn có khi…
Bá Đào hiền sĩ chết vì bạn thân,
Thương thay lặng lẽ âm thầm,
Chết vì tri kỷ muôn phần đẹp thay !
Khi đến nước Sở nhờ có Thượng Đại Phu Bùi Trọng 裴仲 tiến cử, sau khi đã thử tài của Dương Giốc Ai, nên mới sớm được yết kiến Sở Vương và sau khi ứng đối lưu loát những vấn đề của Sở Vương nêu ra, Dương còn dâng lên 10 sách lược rất thiết thực để làm cho nước Sở phú cường. Nhà vua tỏ ra rất vui mừng, bày ngự yến thết đãi rồi phong Dương Giốc Ai làm chức Trung Đại Phu. Dương khóc và kể lại chuyện Tả Bá Đào đã hy sinh ở giữa đường để cho mình đi lập công danh. Sở Vương nghe xong rất cảm động và thương tình cũng truy phong cho Tả Bá Đào làm Trung Đại Phu và cho Dương Giốc Ai dắt đoàn tùy tùng đi cải táng cho Tả Bá Đào.
Truyện được kết thúc bằng cách cho Dương Giốc Ai tự sát sau khi nằm chiêm bao thấy Tả Bá Đào về cho biết là mình bị Kinh Kha của ngôi mộ kế bên đến ức hiếp. Dương Giốc Ai chết để cùng với Tả Bá Đào chống lại Kinh Kha và Cao Tiệm Ly. Truyện có vẻ hoang đường, nhưng kết thúc như thế cho trọn nghĩa kim bằng của tình anh em TRI KỶ : Sống chết đều có nhau !
Tùy tùng về báo lại với Sở Nguyên Vương, Vương thương cho cái nghĩa khí của tình anh em kết bái mà truy phong cho cả hai thành Thượng Đại Phu và cho lập miếu tế tự với sắc ban bốn chữ “TRUNG NGHĨA CHI TỪ 忠義之祠”, là Từ miếu thờ người Trung Nghĩa.
Sau Quản Trọng và Bào Thúc Nha thì đây cũng là một cặp TRI KỶ nổi tiếng trong văn học dân gian Trung Hoa xưa. Người đời sau có thơ tán dương như sau :
古來仁義包天地, Cổ lai nhân nghĩa bao thiên địa,
只在人心方寸間。 Chỉ tại nhân tâm phương thốn gian.
二士廟前秋日淨, Nhị sĩ miếu tiền thu nhật tịnh,
英魂常伴月光寒。 Anh hồn thường bạn nguyệt quang hàn.
Có nghĩa :
Xưa nay nhân nghĩa trùm trời đất,
Chỉ tại lòng người tấc dạ thôi.
Nghĩa sĩ đệ huynh còn trước miếu,
Hương hồn còn mãi ánh trăng trôi !
Trong Truyện Kiều khi nghe Thúy Kiều nói lên cái ý định xưng bá đồ vương của mình, thì Từ Hải tỏ ra rất hài lòng :
Nghe lời vừa ý gật đầu,
Cười rằng: TRI KỶ trước sau mấy người?!
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già.
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau !
… và Từ Hải đã xem Thúy Kiều như là một “Hồng Nhan Tri Kỷ”, đã giúp cho nàng trả ơn trả oán. Rồi khi Thúy Kiều lạy tạ cám ơn thì Từ Hải lại…
… Cười rằng :”Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người TRI KỶ một ngày được chăng.
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ?!
Nhưng rồi vì qúa nghe lời của “Hồng Nhan Tri Kỷ Thúy Kiều”, Từ Hải mới mắc mưu Hồ Tôn Hiến và chết đứng giữa trận tiền. Thúy Kiều đến nơi cũng đã…
Khóc rằng: “Trí dũng có thừa,
Bởi nghe lời thiếp, đến cơ hội này!
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống chết một ngày với nhau!”
Dòng thu như xối cơn sầu,
Dứt lời, nàng cũng gieo đầu một bên.
Nàng Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du lắm tài hoa và cũng lắm nhân cách. Đối với Từ Hải, thì Từ Hải và Thúy Kiều là một đôi TRI KỶ, hiểu rõ lòng dạ của nhau, và dám sống chết có nhau; Còn đối với Kim Trọng thì KIM KIỀU là một cặp TRI ÂM, khi lần tiên nghe Thúy Kiều đàn, Kim Trọng đã :
… Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.
Rằng hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào !
Lựa chi những khúc tiêu tao,
Thiệt lòng mình cũng nao nao lóng người !…
Bản thân Thúy Kiều cũng đã xác nhận mình và chàng Kim là một cặp TRI ÂM, nên sau bao ngày mới được gặp gỡ, Thúy Kiều đã phân bua :
Nàng rằng: gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với TRI ÂM bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm nay,
Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng !…
Từ đồng điệu cảm thông qua tiếng đàn của nhau, tiến thêm một bước yêu nhau và hiểu rõ nhau hơn; Nên từ TRI ÂM lại thấm đậm thành TRI KỶ. Tình TRI KỶ và TRI ÂM hòa quyện lấy nhau trong tình yêu đôi lứa, nên khi biết Thúy Kiều bán mình rồi lưu lạc bặc vô âm tín, chẳng tỏ âm hao, Kim Trọng cũng đã vật vả thuê người đi tìm Thúy Kiều khắp nơi, kể cả…
Rắp mong treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
Dấn mình trong án can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau !…
Qủa là tình sâu nghĩa nặng, chẳng màng hiễm nguy gian khổ, sống chết cận kề vẫn quyết lòng tìm đến với nhau. Khi đã được đoàn viên thì lại nhớ đến những giây phút TRI ÂM của ngày tháng cũ :”Tình xưa lai láng khôn hàn, Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa”. Sau khi nghe lại khúc đàn xôn xao vui vẻ, chàng mới ngạc nhiên hỏi :”… Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy. Tẻ vui bởi tại lòng này, Hay là khổ tận đến ngày cam lai ?”. Thúy Kiều mới đáp :
Nàng rằng :”Vì chút nghề chơi,
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu.
Một phen TRI KỶ cùng nhau,
Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa !”
Nói tóm lại, TRI ÂM là những người bạn cùng am hiểu sở trường của nhau, cùng có chung một thị hiếu như nhau, là những người đồng điệu trong một bộ môn nghệ thuật nào đó, mà tiêu biểu nhất là Âm Nhạc như là Du Bá Nha và Chung Tử Kỳ vậy. Người nầy nghe được tiếng lòng của người kia. Còn TRI KỶ là những người bạn thấu hiểu nhau một cách sâu sắc về các mặt tài năng tính tình, tâm lý tình cảm, hoàn cảnh vui buồn trong cuộc sống như Quản Trọng và Bào Thúc Nha; và có thể cùng đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau như Dương Giốc Ai và Tả Bá Đào vậy. Nhưng trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày của chúng ta mà muốn tìm được một TRI ÂM hay một TRI KỶ là chuyện không dễ dàng chút nào cả !
Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
Tương thức mãn thiên hạ, 相識滿天下,
TRI KỶ năng kỷ nhân ? 知己能幾人?
Có nghĩa :
Dù có quen biết hết cả người trong thiên hạ nầy, thì…
TRI KỶ (là người bạn thân hiểu ta nhất) có được mấy người đâu ?!
Nên tục ngữ lại có câu :
人生得一知己,死而無憾。
Nhân sinh đắc nhất TRI KỶ, tử nhi vô hám !
Có nghĩa :
Trong đời sống con người, nếu có được một người là TRI KỶ, thì có chết cũng không còn hối tiếc gì nữa cả !
Vâng, “Đắc nhất TRI KỶ, khả dĩ tử hĩ 得一知己,可以死矣!” Có được một TRI KỶ trong đời thì chết cũng được rồi !