Cuối tuần đọc Trường tín oán của Vương Xương Linh

Ngày đăng: 13/12/2015 07:20:50 Chiều/ ý kiến phản hồi (0)

Nhắc đến thơ Khuê Oán thì người ta không thể quên được ” Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu “… của Vương Xương Linh, cũng như nhắc đến thơ Cung Oán thì người ta không thể quên được 3 bài thất ngôn tứ tuyệt “Trường tín oán” 長信怨 ( còn có tên là TRƯỜNG TÍN THU TỪ 長信秋詞 ) bất hũ của ông . Ta sẽ lần lượt đọc hết 3 bài nầy nhé ! ( Đúng ra là 5 bài, nhưng bài số 2 và số 5 không nổi tiếng, nên ta chỉ đọc 3 bài : 1, 3 và 4 mà thôi !

h3

 

BÀI 1:

長信怨 1.                      TRƯỜNG TÍN OÁN 1.

金井梧桐秋葉黃,    Kim tỉnh ngô đồng thu diệp hoàng,

珠簾不卷夜來霜。    Châu liêm bất quyện dạ lai sương.
金爐玉枕無顏色,    Kim lô ngọc chẩm vô nhan sắc,

臥聽南宮清漏長。    Ngọa thính Nam cung thanh lậu trường !

王昌齡                                   Vương Xương Linh

 

CHÚ THÍCH :

Trường Tín : Tên của một cung điện đời Hán, nơi mà nàng Ban Tiệp Dư ở để phụng dưỡng Thái Hậu, sau khi bị Triệu Phi Yến ganh tị làm cho nàng bị thất sủng. Nên …

Trường Tín Oán là tả lại sự oán hận của nàng Ban Tiệp Dư tài hoa với bài Chức Cẩm Hồi Văn thêu trên gấm. Vương Xương Linh vì không muốn ( hay không dám ) nói thẳng cảnh buồn thương sầu thảm của các cung nhân trong cung vua Đường, nên mới mượn tích của nàng Tiệp Dư mà nói thác vào.  Ban Tiệp Dư gọi tắt là Nàng Ban, cụ Nguyễn Du đã mượn ” Nàng Ban ” để cho Kim Trọng khen Kiều :…

Khen tài nhả ngọc phun châu,

Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế nầy !

Kim Tỉnh : là giếng vàng, là giếng trong cung vua, hoặc trong các gia đình phú quý, nên miệng giếng được sơn son thiếp vàng cho đẹp.

Ngô Đồng : Một loại cây cao bóng cả, lá có khía hình thon dài, trở màu vàng và rụng vào mùa thu. Theo sách Quảng Quần Phương có câu : Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ tận tri thu ” 梧桐一葉落, 天下盡知秋. Có nghĩa : Một lá ngô đồng rụng xuống, thì cả thiên hạ đều biết rằng mùa thu đã đến rồi !”.

Kim Tỉnh Ngô Đồng : Chỉ lá ngô đồng rụng xuống giếng vàng, như trong Kiều tả lúc Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư xong muốn trở lại với cô Kiều, cũng nhằm lúc mùa thu, nên cụ Nguyễn Du đã viết :

Thú quê thuần hức bén mùi,

Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô !

Châu Liêm 珠簾 : là rèm châu, là rèm được kết bằng những hạt chuổi, là …

Ngậm ngùi rũ bức rèm châu,

Cách tường nghe đã tiếng đâu họa vần.( Kiều ).

Quyện : là Cuốn lại.

Kim Lô Ngọc Chẩm 金爐玉枕 : là lò vàng gối ngọc, chỉ cuộc sống xa hoa trong cung : Lò sưởi được dát vàng và gối nằm được cẩn ngọc.

Nam Cung : chỉ cung vua ở.

Thanh Lậu 清漏 : Thanh là trong trẻo. Lậu là rỉ ra. Thanh Lậu : Chỉ tiếng đồng hồ nước nhỏ giọt trong trẻo trong đêm thanh vắng.

 

NGHĨA BÀI THƠ :

Lá ngô đồng đã rụng xuống phủ đầy cả giếng vàng, Rèm châu cũng bỏ mặc không cuốn lên mặc cho sương đêm thấm ướt. Lò sưởi vàng, gối dát ngọc cũng trở nên vô vị tầm thường  ( không có nhan sắc !). Nằm đây mà nghe tiếng thời gian đang nhỏ giọt thánh thót ở Nam Cung, nơi nhà vua đang yến ẩm !

Toàn bài thơ toát lên một vẻ ngậm ngùi, lạnh lùng chán nản, không màng đến những vật chất xa hoa và khung cảnh phú quý ở chung quanh khi cỏi lòng trống vắng, nàng cung nữ đã thức suốt đêm để lắng nghe tiếng thời gian nhỏ giọt, để thèm khát ước ao một tình yêu, một cuộc sống lứa đôi bình thường như bao người khác.

DIỄN NÔM :

Phủ giếng ngô đồng rụng lá vàng,

Rèm châu chẳng cuốn giọt sương lan.

Lò vàng gối ngọc vô duyên qúa,

Nằm lắng Nam Cung tiếng vọng sang.

Lục bát :

   Giếng vàng đã rụng lá ngô,

                   Rèm châu biếng cuốn đêm mờ sương tan.

                   Lò vàng gối ngọc chẳng màng,

                   Nam Cung lắng tiếng thời gian lạnh lùng !

 Đỗ Chiêu Đức

BÀI 3 :

長信怨 3                     TRƯỜNG TÍN OÁN 3

奉帚平明金殿開,    Phụng trửu bình minh kim điện khai,

暫將團扇共徘徊。    Tạm tương đoàn phiến cộng bồi hồi.
玉顏不及寒鴉色,    Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc,

猶帶昭陽日影來。    Do đái Chiêu Dương nhật ảnh lai !

王昌齡                                Vương Xương Linh

 

CHÚ THÍCH :

Phụng Trửu : Cầm cây chổi.

Đoàn Phiến : Loại quạt hình tròn bọc bằng vải lụa.

Ngọc Nhan : chỉ gương mặt đẹp như ngọc.

Hàn Nha : là con qụa lạnh ( Vì suốt đêm ở ngoài trời ).

Đái : là đeo, là mang.

Chiêu Dương : Tên của Cung Điện mà Hán Thành Đế và chị em của Triệu Phi Yến đang ở đó.

NGHĨA BÀI THƠ :

Buổi sáng, nàng cầm cây chổi để quét tước khi điện vàng vừa mở cửa ra, sau đó thì chỉ còn biết mân mê chiếc quạt lụa tròn mà lòng bồi hồi vô hạn. Thương cho cái nhan sắc đẹp  như ngọc của nàng cũng không bằng được con qụa lạnh. Vì con qụa lạnh lùng suốt đêm đó còn mang được ánh nắng của điện Chiêu Dương nơi Vua ngự mà bay đến đây.

Khéo so sánh vẩn vơ, ở trong nệm ấm chăn êm mà không thấy ấm bằng con qụa suốt đêm chịu lạnh đậu trên điện Chiêu Dương chỉ ấm được một chút khi mặt trời ló dạng, thèm một chút ánh nắng của mặt trời cũng như thèm một chút ơn mưa móc của nhà vua ban cho vậy. Quả là một ao ước vẫn vơ nhưng tội nghiệp vô cùng !

DIỄN NÔM :

Bình minh điện mở chổi cầm tay,

Quạt lụa bâng khuâng mối cảm hoài.

Vẻ ngọc không bằng con qụa lạnh,

Chiêu Dương mang nắng đến nơi nầy.

Lục bát :

Điện vàng mở, chổi cầm tay,

Bâng khuâng quạt lụa ai hoài xiết chi.

Ngọc nhan qụa lạnh khôn bì,

Chiêu Dương nắng ấm phải chi được cùng !

 

 Đỗ Chiêu Đức   

 

BÀI 4 :

長信怨 4                     TRƯỜNG TÍN OÁN 4

真成薄命久尋思,     Chân thành bạc mệnh cửu tầm tư,

夢見君王覺後疑。     Mộng kiến quân vương giác hậu nghi.

火照西宫知夜飲,       Hỏa chiếu tây cung tri dạ ẩm,

分明複道奉恩時。     Phân minh phục đạo phụng ân thì.

王昌齡                              Vương Xương Linh

 

CHÚ THÍCH :

Bạc Mệnh : là Cái mạng mỏng, chỉ người không có phước phần, người luôn gặp nghịch cảnh, trái ngang … Thường dùng để chỉ phái nữ có hoàn cảnh và cuộc đời lận đận lao đao!.

Tầm Tư : là chìm trong suy nghĩ, là suy nghĩ cặn kẽ.

Giác : là Tỉnh ra, ở đây có nghĩa là tỉnh giấc.

Tây Cung : Nơi thứ phi, quý phi ở.

Dạ Ẩm : là uống đêm, có nghĩa là Yến ẩm ban đêm.

Phân Minh : là rõ ràng.

Phục Đạo : là Những con đường hành lang có lan can nối hai dãy lầu với nhau trong cung điện.

Phụng Ân : là Chịu ơn vua, chỉ được vua chiếu cố đến.

 

NGHĨA BÀI THƠ :

Trăn trở suy nghĩ dài lâu mới thật sự biết chắc rằng mình mệnh bạc. Nằm mơ thấy được quân vương, khi tỉnh ra còn ngờ không biết có mơ thật hay không. Trông đèn đuốc sáng rực ở Tây cung biết rằng nơi đó đang có yến tiệc vui chơi. Rõ ràng là nơi hành lang đó đang được nhà vua ban ơn mà !

Bài thơ than vãn cho số phần bạc bẽo của mình, nhớ tiếc những ngày vui đã qua mau như giấc mộng. nhìn cảnh Tây cung đang hưởng ơn mưa móc mà chạnh nhớ đến những ngày vàng son trước đây đã đi qua và biết chắc là sẽ không bao giờ có lại được nữa !

Vốn đã biết cái thân câu chõ,
Cá no mồi cũng khó nhử lên. (Cung Oán NK)

và ….

Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần. ( CONK)
….  mà thôi !

DIỄN NÔM :

Than thân bạc mệnh qủa không sai,

Mơ gặp quân vương nhớ những ngày.

Đèn đóm tiệc tùng Tây cung đó,

Rõ ràng mưa móc rộn nơi này !

Lục bát :

Thương thân mệnh bạc hơn ai,

Quân vương thôi chỉ đoái hoài trong mơ.

Tây cung dạ tiệc lầu thơ,

Rỡ ràng đèn đuốc, được nhờ ơn vua !

   Đỗ Chiêu Đức 

h1Vương Xương Linh, Thi nhân đời Đường, tự là Thiếu Bá. Người đất Kinh Triệu Trường An  ( Thuộc Tây An của Thiểm Tây ngày nay ). Ông đậu Tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 15 (727 ), nhậm chức Phạm Thủy Úy, sau thuyên về làm Giang Ninh Thừa, nên người đời gọi ông là Vương Giang Ninh. Về già bị biếm làm Long Tiêu Úy. Sau loạn An Lộc Sơn, ông về quê, khi đi ngang qua Hào Châu bị Thứ sử Lư Khưu Hiểu giết chết. Ông sở trường về thơ Thất ngôn tứ tuyệt, người đời sau gom góp lại được một  “Vương Xương Linh tập “.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác