HOÀNG HẠC LÂU với Cụ NGUYỄN DU và Cụ PHAN THANH GIẢN

Ngày đăng: 18/04/2015 08:20:02 Sáng/ ý kiến phản hồi (2)

Năm Quý Dậu (1813) Khi NGUYỄN DU được thăng Cần Chánh điện Đại Học Sĩ và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu Tham Tri bộ Lễ (hàm Tam phẩm). Chính thời gian đi sứ sang nhà Thanh nầy, khi đi ngang qua lầu Hoàng Hạc Nguyễn Du cũng không bỏ lở cơ hội ghé qua ngôi lầu nổi tiếng cổ kim nầy, và cũng chính vì thế mà ta lại được đọc thêm một bài thơ vịnh Hoàng Hạc Lâu bất hũ sau đây :
黃鶴樓                       Hoàng Hạc lâu
阮攸                                 Nguyễn Du
何處神仙經紀時 ?        Hà xứ thần tiên kinh kỉ thì ?
猶留仙跡此江楣 .        Do lưu tiên tích thử giang mi.
今來古往盧生夢,         Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng,
鶴去樓空崔顥詩 .        Hạc khứ lầu không Thôi Hiệu thi.
軒外煙波空渺渺,         Hiên ngoại yên ba không miểu miểu,
眼中草樹尚依依 .        Nhãn trung thảo thụ thượng  y  y.
衷情無限凴誰訴 ?        Trung tình vô hạn bằng thùy tố ?
明月清風也不知 !        Minh nguyệt thanh phong dã bất tri !

 

CHÚ THÍCH :
1. KINH KỶ 經紀 : là Kinh Doanh, tính toán làm ăn, buôn bán. Ví dụ : KINH KỶ NHÂN 經紀人 : Người Kinh Doanh. KINH KỶ GIA 經紀家 : là Nhà Kinh Doanh. Từ KINH KỶ trong câu thơ chỉ Hoàng Hạc Lâu từng là nơi kinh doanh buôn bán rượu được tiên giúp đở theo các truyền thuyết sau đây :

 

Có ba truyền thuyết về Hoàng Hạc Lâu như sau :
A. Theo ” Nam Tề thư Châu Quận Chí ” : Thời cổ đại, có tiên ông Hoàng Tử An thường cởi hạc vàng bay ngang qua lầu nầy, nên mới lấy tên là HOÀNG HẠC LÂU.
B. Theo sách ” Đồ Kinh ” : Xưa Phí Vĩ lên tiên, thường cởi hạc vàng nghỉ ngơi ở lầu nầy, nên có tên là HOÀNG HẠC LÂU. Nhưng…
Theo sách ” Thái Bình Hoàn Vũ Kí ” thì ghi rằng : Người nước Thục là Phí Văn Vĩ tu thành tiên, thường cởi hạc vàng và nghỉ ngơi ở lầu nầy, nên mới đặt tên lầu là ” HOÀNG HẠC LÂU “.
C. Theo ” Báo Ứng Lục ” : Dòng họ Tân Thị mở quán bán rượu. Một hôm, có một đạo sĩ tướng mạo khôi ngô, nhưng áo quần lam lũ, đến hỏi một cách thẳng thắng rằng : ” Có thể cho bần đạo uống chịu được không ?”, Tân Thị ưng thuận. Đạo sĩ uống bằng ly lớn và uống rất nhiều. Cứ thế, kéo dài nửa năm, Tân Thị vẫn thản nhiên không lộ vẻ khó chịu. Một hôm, đạo sĩ nói với Tân Thị rằng : ” Thiếu nhiều tiền rượu quá, không gì đền đáp ! “, bèn lấy miếng vỏ quit trên bàn vẽ hình một con hạc lên vách, vì vẽ bằng vỏ quít nên con hạc có màu vàng. Điều thần kì là hễ Tân Thị vổ tay thì hạc từ trên vách bay xuống múa may chào khách theo đúng âm luật nhịp nhàng, nên khách đến uống rượu rất đông. Ròng rã suốt mười năm trường, Tân Thị đã giàu có ức vạn. Một hôm, đạo sĩ trở lại,Tân Thị tiếp đón vô cùng niềm nở, tỏ Ý sẽ thỏa mãn mọi yêu cầu của đạo sĩ. Đạo sĩ chỉ cười, lấy trong tay áo ra một ống sáo, thổi lên mấy hồi réo rắc. Bỗng thấy mây trắng từ trên cao bay xuống và hạc vàng cũng từ trong vách bay ra. Đạo sĩ cưởi hạc cưởi mây mà bay đi mất dạng. Vì vậy  mà Tân Thị mới dùng tiền kiếm được xây quán thành lầu và đặt tên là ” HOÀNG HẠC LÂU ” từ đó. Nên…

Câu thơ số 1 ” Hà xứ thần tiên kinh kỉ thì ?” có nghĩa : Nơi đâu là nơi mà có lúc thần tiên đã ( giúp đỡ cho việc ) kinh doanh buôn bán ?
2. TIÊN TÍCH 仙跡 : Vết tích của Thần Tiên. GIANG MY 江楣 : là Cửa Sông, Ngã Ba Sông. Nên câu 2 “Do lưu tiên tích thử giang mi.” có nghĩa…
…Còn lưu lại dấu vết của thần tiên ở cửa sông nầy !
3. LƯ SINH MỘNG 盧生夢 : Giấc mộng của Lư Sinh, còn gọi là Giấc mộng Hoàng Lương hay là Giấc Kê Vàng. Theo tích : Lư Sinh người đất Hàm Đan, thi rớt, gặp một đạo sĩ họ Lã ( Lữ ) trong quán rượu, chuyện trò rất tâm đắc. Sinh than thở cho cuộc đời bất đắc chí của mình, đạo sĩ cười ,lấy một chiếc gối bằng sành đưa cho Lư Sinh, bảo chàng gối đầu lên đó mà ngủ một giấc sẽ được toại nguyện. Lư Sinh bèn làm theo lời đạo sĩ, lúc đó, chủ quán vừa bắt nồi hoàng lương ( hạt kê màu vàng như hạt bắp ) lên nấu….

Lư Sinh mộng thấy mình trở về quê, cưới được con gái nhà giàu là Thôi Thị làm vợ, sống cuộc đời giàu có. Năm sau, đi thi lại đỗ ngay Tiến Sĩ Hoàng Giáp, được phong Hiệu Thư Lang, làm Huyện Úy của Huyện Vị Nam, sau lại được phong làm Giám Sát Ngự Sử. Cách năm lại qua Thiểm Châu phụ trách công trình thủy lợi, giúp dân khai mở trên 80 dặm kinh đào xuyên qua Thiểm Tây, dân chúng lập bia ghi lại công đức. Mấy năm sau, được triệu về kinh làm Kinh Triệu Doãn, vừa gặp lúc Thổ Phồn làm loạn, Thần Võ Hoàng Đế phong cho làm tướng soái đánh tan 7 vạn quân Phiên, mở mang thêm 900 dặm bờ cỏi, được dựng bia đá ghi công. Mấy năm sau được chuyển về kinh, quan phong Ngự Sử Đại Phu, Lại Bộ Thị Lang. Nhưng vì có lời xúc phạm đến Tể Tướng đương triều, nên bị biếm làm Ngự Sử Đoan Châu. Ba năm sau được triệu về kinh làm Trung bộ Thị Lang, bị tước hết binh quyền, lại bị những bạn đồng liêu hãm hại, vu cho cấu kết với các tướng ở biên cương, mưu đồ làm phản, nên cả nhà đều phải lãnh án tru di, Sinh buồn khóc với vợ là Thôi Thị, phải biết trước thì không ra làm quan, định tự vẫn, may nhờ có quới nhân bảo trợ mới khỏi tội chém đầu, cả nhà đều vào đại lao thọ án. Mấy năm sau,Vua biết là bị hàm oan, nên cho phục chức Trung Thư Lệnh, phong Triệu Quốc Công. 5 đứa con trai đều đậu đạt và đăng đàn bái tướng. Con cháu đầy đàn, thông gia đều là những gia đình quyền quí. Ruộng đất vạn khoảnh, gia bộc đầy nhà, vinh hoa phú quí suốt 30 năm trường. Khi già bệnh thì lương Y khắp nơi được mời về điều trị, nhưng sinh lão bệnh tử nào ai tránh khỏi, nên cuối cùng cũng nhắm mắt lìa đời…

Đây cũng là lúc Lư Sinh vừa tỉnh mộng, đạo sĩ họ Lữ còn ngồi đó, và nồi kê vàng của chủ quán còn nấu chưa chín để bán cho khách !… Nên, câu 3 “Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng,” có nghĩa…
Tất cả những việc từ xưa đến nay cũng giống như là giấc mộng của Lư Sinh mà thôi !

Câu 4. “Hạc khứ lầu không Thôi Hiệu thi.” có nghĩa : Hạc đã bay đi rồi, lầu đã trống không rồi, chỉ còn lại có bài thơ của Thôi Hiệu mà thôi.
Câu 5. “Hiên ngoại yên ba không miểu miểu,” có nghĩa : Ngoài hiên lầu, khói sóng trên sông vẫn mênh mông bát ngát.
Câu 6. “Nhãn trung thảo thụ thượng  y  y.” có nghĩa : Trong mắt ta, cỏ cây hoa lá như vẫn bịn rịn luyến lưu.
Câu 7. “Trung tình vô hạn bằng thùy tố ?” có nghĩa : Nỗi cảm xúc vô vàn ở trong lòng này biết tỏ cùng ai đây ?.
Câu 8. “Minh nguyệt thanh phong dã bất tri !” có nghĩa : Trăng trong gió mát cũng không biết được nỗi lòng này của ta !.

 

DIỄN NÔM :
LẦU HOÀNG HẠC
Nơi nào tiên thánh đã kinh thương,
Lưu dấu cửa sông mấy dặm đường.
Tháng lại ngày qua như giấc mộng,
Hạc bay lầu vắng chỉ thơ vương.
Ngoài hiên bát ngát sông mây khói,
Trước mắt mơ hồ hoa cỏ hương.
Muốn tỏ nỗi lòng ai thấu hiểu ?
Trăng  thanh gió mát cũng xem thường !
Lục bát :
Nơi nào tiên đã từng qua,
Còn lưu vết tích chưa nhòa cửa sông.
Lư Sinh giấc mộng như không,
Lời thơ Thôi Hiệu mây lồng hạc xa.
Ngoài hiên sóng nước bao la,
Luyến lưu cây cỏ la đà ven sông.
Biết ai bày tỏ nỗi long  ?
Trăng thanh gió mát sầu không ai màng !
Đỗ Chiêu Đức

 

Bài DIỄN NÔM của thi sĩ Thời Tiền chiến QUÁCH TẤN :

 

Lầu Hoàng Hạc
Nào thuở tiên đi mãi đến giờ ,
Dấu tiên bên bến đứng trơ vơ .
Xưa qua nay lại Lư dồn mộng ,
Hạc khuất lầu không Hạo để thơ .
Thăm thẳm nước mây ngoài vạn dặm ,
Dờn dờn cây cỏ vẫn nghìn xưa .
Nỗi lòng ấp ủ cùng ai tỏ ?
Gió mát trăng trong luống hửng hờ .
( Quách Tấn diễn nôm )

Năm 1834, Minh Mạng thứ 15, Cụ PHAN THANH GIẢN được cử đi sứ Trung Quốc. Khi đi ngang qua ngôi lầu nổi tiếng nầy, cũng như tất cả những thi nhân từ ngàn xưa đến nay, ông đã không bỏ lỡ dịp may lên thăm và ngắm ngôi lầu với nhiều huyền thoại nầy, và cũng vì thế mà ta mới có dịp thưởng thức thêm một bài thơ trác tuyệt của ông : ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU sau đây :

369px-Phan_Thanh_Gian

    ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU                            登黃鶴樓

Phan Thanh Giản                        藩清簡

 

Tích thời hạc dĩ hà niên khứ ?                  昔時鶴已何年去?

Thiên tải nhân tòng Nam cực lâm.            千載人從南極臨。

Anh vũ châu tiền phương thảo lục,           鸚鵡洲前芳草綠,

Tình Xuyên Các thượng bạch vân thâm.    晴川閣上白雲深。

Bán liêm lạc nhật phù Giang Hán,            半簾落日浮江漢,

Nhất phiến hàn lưu tống cổ câm (kim)      一片寒流送古今。

Mãn mục yên ba chuyển trù trướng,         滿目煙波轉惆悵,

Du du trần mộng thập thu tâm.               悠悠塵夢拾秋心!

 

Dịch Nghĩa :

 

Câu 1 :  Ngày xưa, Hạc đã bay đi mất tự năm nào ?
Câu 2 : Ngàn năm sau, mới có người từ vùng cực Nam đến đây.( Ngàn năm chỉ là cách nói nhấn, để chỉ rất nhiều năm rồi. Đối với Trung Hoa xưa thì nước ta ở về phía cực Nam. Câu nầy Cụ Phan tự chỉ mình là người đến từ Nước cực Nam, là nước xa tít ở cỏi Nam  ).
Câu 3 : Cỏ non vẫn còn xanh tươi trên cù lao Anh Vũ ở giữa ngã ba sông. Liên hệ câu : Phương thảo thê thê Anh Vũ Châu, trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đời Đường nêu trên ).
Câu 4 : Mây trắng vẫn còn chập chùng trắng xóa khi ta đứng trên Tình Xuyên Các. ( chữ ” Thâm ” ở đây không có nghĩa là ” sâu ” , mà là ” Đậm “, dùng để chỉ màu sắc, mây trắng mà ” đậm “, là mây ” trắng xóa chập chùng ” . Chữ THÂM ở đây còn dùng để đối với chữ LỤC ở câu trên.
Câu 5 : ( Vì đứng trong lầu nhìn ra, nên thấy…) Mặt trời lặn như nổi trên sông nước lung linh xuyên qua Nửa Bức Rèm ( bán liêm ) treo trên lầu .
Câu 6 : Một dãy nước chảy âm thầm, lạnh lùng xuyên suốt từ ngàn xưa đến nay.
Câu 7 : Mãn mục là ” đầy mắt ” , ở đây có nghĩa là khoảng không gian mênh mông trước mắt. Câu nầy có nghĩa : Khói sóng mênh mông khiến cho lòng xúc đông bồi hồi ( trù trướng ).
Câu 8 : ( Nên chi )…Trong ( giấc mộng trần thế ) cuộc đời mộng ảo nầy cũng chỉ nhặt nhạnh ( thập )  được lòng hoài cảm trong mùa thu mà thôi !. Câu cuối nầy, có thể Cụ PHAN đã chơi chữ đây, vì chữ THU 秋 ở trên, chữ TÂM 心 ở dưới, nếu ghép lại thì ta sẽ có chữ SẦU 愁. Cũng vừa hợp với chủ ý của bài thơ gốc của Thôi Hiệu :
Nhật mộ hương quan hà xứ thị             日暮鄉関何處是
Yên ba giang thượng sử nhân SẦU        烟波江上使人愁
mà nhà thơ Tản Đà đã dịch rất xuất sắc là :
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai  !….

 

Mặc dù không sử dụng vần ” LÂU…SẦU ” như Thôi Hiệu, nhưng âm hưởng của bài Đăng Hoàng Hạc Lâu của cụ Phan Thanh Giản vẫn tạo nên một nỗi niềm hoài cổ sâu xa man mác với hạc vàng mây trắng, với Anh Vũ Châu, với Tình Xuyên Các : Một kiến trúc được xây dựng nên và được đặt tên do câu thơ bất hủ của Thôi Hiệu ” Tình xuyên lịch lịch Hán dương thọ “. Bài thơ được kết thúc bằng lối chơi chữ chiết tự tài hoa của cụ Phan để hướng bài thơ về với mối sầu thiên cổ ” Du du trần mộng thập thu tâm ! ” làm ta nhớ đến câu : ” Ai đem thu cảnh họa cùng thu tâm !” của Nữ sĩ Tương Phố trong Thi Ca Tiền Chiến…

(còn nữa)

Đỗ Chiêu Đức
 

Có 2 bình luận về HOÀNG HẠC LÂU với Cụ NGUYỄN DU và Cụ PHAN THANH GIẢN

  1. Hoành Châu nói:

    Đọc HOÀNG HẠC LÂU  của cụ NGUYỄN DU  độc giả thời nay  ( trình độ Hán Việt yếu ) cảm thấy khó hiểu , Tuy nhiên , , nếu đọc phần Chú thích  và ngâm nga hai bài thơ DIỄN NÔM  Lầu Hoàng Hạc   của Thầy Đỗ Chiêu Đức  và Thi Sĩ thời Tiền Chiến Qúach Tấn , người đọc  sẽ  tiếp thu dễ dàng  hơn ,
    Cũng như thế , ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU  của cụ Phan Thanh Gỉan  cũng được xem là bài thơ trác tuyệt với nhiều huyền thoại xa xưa ,
    **
    Nhắc tới Nữ Sĩ Tương Phố khiến ta liên tưởng ngay đến bài thơ bất tử GIỌT LỆ THU   với trào lưu  thơ mới lãng mạn trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến !
    “””Sầu   thu    nặng , lệ    thu   đầy
    Vì  lau    san    sát    hơi    may    lạnh    lùng
    Ngỗn   ngang    trăm    mối    bên     lòng
    Ai   đem    thu    cảnh    họa   cùng     thu    tâm “….

  2. hoàng Hưng nói:

    14 ơi, nhắc đến bà Tương Phố Út nhớ được bốn câu đầu:

    Trời thu ảm đạm một mầu

    Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em

    Trăng thu ngả bóng bên thềm

    Tình thu ai để duyên em bẻ bàng

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác