Hoa Anh đào Muôn thuở :Vài bài thơ khó quên của Bashō

Ngày đăng: 15/08/2013 07:03:26 Sáng/ ý kiến phản hồi (0)

     Nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm đọc mục thơ trên trang nhà  thấy Hồng Băng đề xướng làm thơ Haiku nên đã gửi bài viết của  TS Vĩnh Sính ( GS sử học đại học Alberta, Canada)  nhằm giúp anh chị em có thêm kiến thức về thể thơ này. Xin chân thành cám ơn  TS Vĩnh Sinh và nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm ( LM)

                                                                 

                                                          Cửa Thiền vừa cữ cuối Xuân,
                                                                Bông hoa đầy đất vẻ ngang lưng trời.

                                                                                                          Truyện Kiều

 

Trùng trùng duyên khởi: Trong thơ Nhật, không hiểu sao chúng tôi cảm thấy gần gũi với Saigyō (1118-1190)[1] và Bashō (1644-1694) lạ lùng. Đặc biệt là Bashō.

Hồi còn ở Nhật,[2] chúng tôi có gõ cửa Thiền mấy lần nhưng duyên chửa bén. Kịp đến khi bắt đầu ra dạy học (năm 1982), trùng trùng duyên khởi, cửa Thiền học mở rộng rồi duyên mới kết. Đến với Thiền học trước khi gặp Bashō đúng là hạnh ngộ ! Lý do là Thiền bàng bạc trong thơ Bashō.

Thế rồi mười hai năm trước (1998), những lúc rảnh rỗi chúng tôi dịch cuốn Oku no hosomichi (奥の細道Lối lên miền Oku/Bắc) của Bashō ra tiếng Việt.[3] Thư khích lệ của bạn đọc tạo niềm vui vô hạn, tiếc rằng sách đã tuyệt bản. Hy vọng chúng tôi sẽ có dịp sửa lại bản dịch và bài giới thiệu cho hoàn chỉnh, thêm phần minh hoạ cho đàng hoàng hơn nữa để rồi giới thiệu cùng độc giả.

Trong bài này chúng tôi xin giới  thiệu vài bài thơ của Bashō mà chúng tôi cảm thấy khó quên. 

                                      ***

Vài điều cần biết về haiku của Bashō: Bashō là người đã định hình thể thơ haiku và đưa haiku có chỗ đứng bề thế và trang trọng trên văn đàn Nhật Bản.[4] Qua thơ Bashō, lần đầu tiên một khái niệm mỹ học (美学) mang tên là sabi (寂びtịch, như trong chữ “tịch liêu”) được đưa vào một cách hài hòa và ở một mức độ chưa từng thấy.

Sabi đầu tiên được phổ biến qua thơ waka của Fujiwara Shunzei (1114-1204). Ý thức này được các nhà thơ sau đó, đặc biệt là Bashō, tiếp tục phát triển và định hình. Trên thực tế, sabi trở thành khái niệm căn bản trong thơ Bashō. Sabi nhấn mạnh vẻ đẹp tao nhã của những dáng hình cổ kính hay của thiên nhiên cô tịch — không hào nhoáng rực rỡ, lộng lẫy hay kiêu kỳ. Cần để ý rằng thơ haiku của Bashō tuy phảng phất không khí trầm lắng u huyền, gợi cho người đọc sự vô thường trong cuộc đời, nhưng luôn thắm đượm tình người và không bao giờ mang nét cay đắng chua chát hay u uất, oán hờn.[5]

Sức ám thị (suggestibility) và tính hàm súc, theo học giả Daisetz Suzuki,  là bí quyết của thơ haiku cũng như của nghệ thuật Nhật Bản nói chung. “Các nhà nghệ thuật Nhật Bản đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của Thiền (禅Zen), họ luôn luôn có khuynh hướng diễn tả tình cảm với số chữ hoặc số nét tối thiểu.” Điều tối kỵ khi làm thơ haiku là thích lý luận dông dài, “khi tình cảm đã đạt đến mức độ cao nhất, ta lặng thinh, bởi lẽ không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả thích đáng. Ngay mười bảy âm tiết [trong thơ haiku] cũng đã quá dài.”[6] Xem như vậy, người làm thơ haiku vừa phải là người tu luyện Thiền.[7]

Tuy không phải là Thiền sư, Bashō thường ăn vận như một nhà sư. Ngày ngày ngồi tham Thiền và đọc sách, Bashō lần lần ý thức rằng haiku không chỉ là trò giải trí hay thú tiêu khiển, mà phải biểu lộ sâu sắc thái độ của người làm thơ đối với cuộc sống. Thơ của Bashō dần dần thể hiện vẻ đẹp u hoài diệu vợi của thiên nhiên và cuộc sống hiu quạnh của chính mình. Tương truyền Bashō trồng bên cạnh túp lều này một bụi chuối (chữ Hán gọi cây chuối là “Ba-tiêu芭蕉”, tức Bashō) do môn đệ biếu.[8]

Cây chuối vì ít thấy ở Nhật, hàng xóm từ đó bắt đầu gọi túp lều có bụi-chuối-không-trái này là Bashō-an (芭蕉庵 ), tức là Am Ba-tiêu, rồi chẳng bao lâu họ gọi luôn chủ nhân của túp lều đó là Bashō-Sensei (Ba-tiêu Tiên sinh). Chủ nhân túp lều chắc vừa ý với cái tên Ba-tiêu nên từ đấy mới lấy Bashō làm bút hiệu. Cây chuối, đối với Bashō, tượng trưng cho tính nhạy cảm (sensibility): trước một cơn gió nhẹ, tàu lá chuối có thể gãy bất cứ lúc nào. Nhà thơ lắng nghe tiếng lá chuối lay động xào xạt mỗi lúc trời trở gió giữa đêm khuya thanh vắng. Nếu trong bản hợp tấu của thiên nhiên hòa thêm tiếng mưa rơi rả rích, không khí trong túp lều chắc hẳn lại thêm phần cô tịch và sâu lắng.[9]

Ngoài ra, Bashō đã nhắc đến bốn mùa trong haiku một cách gián tiếp và thường xuyên, được gọi là “quí ngữ季語” —  tức là ký hiệu về bốn mùa.

Tương truyền khi mất Bashō có đến trên hai ngàn môn đệ. Những nhà thơ nổi tiếng về sau, như Buson (1716-1784),[10] Issa (1763-1827),[11] và vô số nhà thơ khác đều chịu ảnh hưởng của thơ Bashō.[12]

Nhiều bài thơ được yêu chuộng của Bashō đã được sáng tác trên những chuyến đi. Những cuộc ngao du này không những đã ghi lại cảm hứng của Bashō khi viếng thăm những nơi danh lam thắng cảnh, mà còn nói lên sự nhạy cảm của nhà thơ đối với những loài cỏ mọn hoa hèn, như hoa mã đề (nazuna), hoa nghệ (benibana), hoa thu (hagi); thảng hoặc những con nhái, con ve sầu, con chuồn chuồn, con chim cuốc, v.v. mà nhà thơ đã bắt gặp đó đây trên bước hải hồ.

Những hình tượng này gần gũi với người Việt, và cũng chính vì ảnh hưởng của Thiền còn bàng bạc trong văn hoá Việt Nam, độc giả người Việt có thể thưởng thức cảm tính nghệ thuật trong thơ haiku của Bashō không mấy khó khăn.

Vài bài thơ khó quên:

 

·        Thăm bãi chiến trường xưa

Natsugusa ya                                      Cỏ mùa Hè [cao che mất lối đi]

Tsuwamonodomo ga                                     Binh lửa                                      
            Yume no ato                                        Dấu vết xưa

 

Cỏ cao che lấp lối mòn,   
            Dấu xưa binh lửa chỉ còn thế thôi !

 

Bashō sáng tác bài này khi qua vùng Hiraizumi,[13] nơi ngày xưa vào cuối thế kỷ XII vị võ tướng tài hoa son trẻ Minamoto-no-Yoshitsune,[14] sau khi giúp anh-cùng-cha-khác-mẹ là Minamoto-no-Yoritomo[15] dẹp tan họ Taira[16] lập nên chế độ bakufu đầu tiên tại Kamakura, bị Yoritomo ganh tỵ ra lệnh truy nã. Cuối cùng sa cơ thất thế, mãnh hổ nan địch quần hồ Yoshitsune phải tự vẫn, khiến muôn đời vẫn còn luyến tiếc. 

 Chúng tôi đã lồng ý “mùa Hè” trong nguyên văn qua hai chữ “cỏ cao.” Đỗ Phủ, vị thánh thơ thời Thịnh Đường, đã viết hai câu đầu trong bài “Xuân vọng春望” như sau:[17]

Quốc phá sơn hà tại,                           国破山河在

Thành Xuân thảo mộc thâm.              城春草木深

Tạm dịch:

Chiến tranh tàn phá, nước còn đây,
           Thành đã vào Xuân, cỏ ngút đầy !

Bashō chắc đã ít nhiều lấy ý từ hai câu này, song sáng tạo nhuần nhuyễn, chuyển “Thành đã vào Xuân” thành cỏ mùa Hè mà chúng ta gọi tắt theo “quí ngữ” là “cỏ cao.” 

Hiraizumi cũng là nơi dòng họ Fujiwara ba đời lập nghiệp, vinh hoa nổi tiếng một thời. Bài thơ trên đã được sáng tác trong niềm cảm hoài khi Bashō đến thăm dấu vết của bãi chiến trường khoảng năm trăm năm về trước.

Chắc hẳn cũng trong niềm cảm hoài tương tợ mà Bà Huyện Thanh Quan đã viết nên bài “Thăng Long thành hoài cổ” nổi tiếng trong văn học nước ta:

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,

 Đến nay thấm thoát mấy tinh sương,

 Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

 Nền cũ lâu đài bóng tịch dương…

 

·        Thăm thắng cảnh Matsushima

Matsushima ya                                    Kìa Tùng Đảo

 Â Matsushima ya                               Ô kìa Tùng Đảo

 Matsushima ya                                   Kìa Tùng Đảo

 

Ô kìa Tùng Đảo, đây Tùng Đảo !

Tùng Đảo đây rồi ! Tùng Đảo đây !

 

          Ở Nhật có vô số danh lam thắng cảnh, trong đó Matsushima (松島Tùng-Đảo) thuộc huyện Miyagi được xem là một trong “ba thắng cảnh tuyệt vời nhất”. 

Matsushima có hơn 260 đảo nhỏ, do biển xoáy mòn tạo thành một cảnh quan hiếm có. Trên đảo lại có những chòm thông muôn hình muôn vẻ. Du khách ngỡ mình đi lạc vào Bồng Lai tiên cảnh.

          Khi viếng thăm Matsushima, nhìn cảnh sắc đẹp không bút nào tả xiết, Bashō khẩu chiếm bài thơ trên, trong đó hầu như nhà thơ chỉ nhắc đến tên Matsushima, còn những chữ khác đều là những tiếng phụ. Cảnh đẹp quá, đến nổi không có lời diễn tả !

            Nhà thơ Đào Uyên Minh thời Lục Triều ở Trung Hoa có bài thơ rất hay để nói lên tâm trạng đó:

Sơn khí nhật tịch giai,

Phi điểu tương dữ hoàn,

Thử trung hữu chân ý,

Dục biện dĩ vong ngôn.

Tạm dịch:

Chiều tà khí núi đẹp ghê !

Đàn chim vỗ cánh bay về cùng mây,

Ngẫng xem chân ý tràn đầy,

Muốn đem bút viết chẳng hay viết gì !

Đọc bài thơ Matsushima, chúng ta không khỏi nhớ đến Hàn Mặc Tử. Nhà thơ tài hoa mệnh bạc khi đi qua Phan Thiết, trong niềm thổn thức và cọng cảm với non nước xứ Lầu Ông Hoàng, đã buột miệng kêu lên hai tiếng ‘Phan Thiết ! Phan Thiết !’ mà lời thơ là một bài haiku toàn bích như Bashō (mặc dầu trong thơ Bashō không hề mang nét cay đắng, u uất):

Ôi trời ơi ! Là Phan Thiết ! Phan Thiết !

Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi[18]

 

 (còn 1 kỳ nữa)

 

TS Vĩnh Sính·     

——————————————————————————————–  

[1] 西行Tây-Hành. Xin xem bài Vĩnh Sính, “Saigyō (1118-1190): Thi sĩ tài hoa yêu phiêu du của Nhật Bản”. http://www.erct.com/2-ThoVan/VinhSinh/SaiGyo-Hoshi.htm.

[2] Chúng tôi sang Nlhật năm 1963, nhưng vì học tiếng Nhật cần thời giờ nên lúc đầu đọc sách về Thiền học một nửa để học ngôn ngữ, một nửa để tìm hiểu về Thiền. Chúng tôi ở Nhật cho đến năm 1972, giai đoạn sau khi vấn đề ngôn ngữ không còn nữa, lại bận nhiều về những chuyện khác.

[3] Matsuo Bashō. Lối lên miền Oku, Vĩnh Sính dịch và giới thiệu (Hà Nội: Nxb Thế giới, 1998).

[4] Haiku chỉ có 17 âm tiết vỏn vẹn với 3 câu theo thứ tự là 5-7-5. Xin xem thêm bài Vĩnh Sính,  “Bashō và cõi thơ haiku” về thơ haiku và Bashō. http://www.erct.com/2-ThoVan/VinhSinh/BaSho.htm

[5] Xem bài trên.

[6] Zen to Nihon bunka (Thiền và văn hóa Nhật Bản ) (Tokyo: Iwanami Shoten, 1967), trang 187-188.

[7] Xem Vĩnh Sính, “Bashō và cõi thơ haiku”.

[8] Như trên.

[9]Như trên.

[10]蕪村 Vu-Thôn.

[11]一茶Nhất-Trà.

[12] Xin xem Vĩnh Sính, “Bashō và cõi thơ haiku” để biết về tiểu sử của Bashō.

[13] 平泉Bình-Tuyền.

[14] 源義経 Nguyên Nghĩa-Kinh.

[15] 源頼朝Nguyên Lại-Triều.

[16] 平Bình.

[17] Về ảnh hưởng của Đỗ Phủ đối với Bashō, xin xem Vĩnh Sính, “Bashō và cõi thơ haiku”.

[18] Trong bài “Phan Thiết! Phan Thiết!”, trích từ Tuyển tập Hàn Mặc Tử (Hà Nội: Nxb Văn Học, 1987), trang 93.

[19] Tức

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài viết mới khác